thơ trào phúng hồ xuân hương
Chúng tuy mang tiếng chữ nghĩa đầy mình nhưng khi thốt ra cũng chẳng khác. 4. gì "lũ ngẩn ngơ", không biết gì, để đến nỗi một cô gái trẻ phải "dạy" lại. Hồ Xuân. Hương gọi chúng là "dê cỏn" chứ không phải dê con, vì dê con là dê còn nhỏ, còn. ngây thơ, "dê
Liệu những bài tự tình này có bị lạc điệu so với dóng thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương qua những bài thơ này, người đọc đánh giá như thế nào về chiều sâu tưởng tượng trong thơ của bà. Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ
PHONG CÁCH THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG. Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.61 KB, 6 trang ) dù làm thơ trào phúng hay làm thơ trữ tình đềuchịu sự chi phối của một tư tưởng thống nhất. Đó là chú nghĩa nhân đạo của
Vay Tiền Home Credit Online Có An Toàn Không. Thơ Hồ Xuân Hương ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Tìm Hiểu Chi Tiết Về Cuộc Đời, Sự Nghiệp Sáng Tác Của Bà Chúa Thơ Nôm. Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Hồ Xuân Hương Giai Thoại Về Hồ Xuân Hương Giai Thoại 1Giai Thoại 2Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Hồ Xuân Hương Phong Cách Thơ Hồ Xuân Hương Nghệ Thuật Thơ Hồ Xuân Hương Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Hồ Xuân Hương 15 Bài Thơ Nổi Tiếng Của Hồ Xuân HươngBánh Trôi NướcThơ Tự TìnhVịnh Cái QuạtVấn NguyệtCảnh ThuChùa Hương TíchHọa NhânĐá Ông Chồng, Bà ChồngĐánh ĐuHỏi TrăngLấy Chồng ChungDuyên Kỳ NgộMời Ăn TrầuỐc NhồiQuả Mít Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Hồ Xuân Hương Cùng tìm hiểu chi tiết về cuộc đời tác giả Hồ Xuân Hương – người được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương 1772 – 1822 là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Cứ theo Giai nhân di mặc, Hồ Xuân Hương là ái nữ của Sinh đồ Hồ Phi Diễn 1704 – 1786, người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây Hà Nội bây giờ lấy tên là Cổ Nguyệt Đường. Là một người phụ nữ tài hoa thế, có cá tính mạnh thế nhưng cuộc đời của bà vô cùng bất hạnh. Hồ Xuân Hương có hai đời chồng, hai lần đều làm lẽ và không hạnh phúc. Cuộc đời của bà vô cùng nhiều sóng gió thế nên những câu thơ như một lời tâm sự về cuộc đời của người phụ nữ tài hoa mà bất hạnh. Hồ Xuân Hương là một người đi nhiều nơi thế nên bà có mối quan hệ rất thân thiết với nhiều danh sĩ nổi tiếng. Đọc thêm về❤️️ Thơ Nôm Hồ Xuân Hương ❤️️30+ Bài Thơ Chữ Hán Hay, Nổi Tiếng Giai Thoại Về Hồ Xuân Hương Chia sẻ cho bạn một số giai thoại nổi tiếng về Hồ Xuân Hương sau đây. Giai Thoại 1 Giai thoại đầu tiên xuất hiện ngay sau khi bà từ Vĩnh Phú về dựng cổ nguyệt đường dạy học, làm thơ. Hôm ấy một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh hồ Tây. Trời trong, nước xanh- cảnh vật đẹp đến nao lòng vì bao nhiêu tinh tú của đất trời dường như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi mà tâm hồn nhạy cảm của bà nhìn ra và quyết định dừng lại an cư lập nghiệp chứ không tiến vào kinh thành Thăng Long – nơi bao văn võ bá quan, dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều tìm vào – vì vị trí khuất nẻo so với kinh thành…Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghênh ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to Võng điều quan lớn đi trên ấyVáy rách bà con giặt dưới này. Ví cái võng điều của quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác quan thời nay là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực thì quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao cửa rộng, vợ nọ con kia, còn ô dù võng lọng, nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi gì cho dân đâu ? Nghe câu đối, cả thầy, cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa, biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy…Chuyện này mà để lan truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghênh ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp mê hồn. Giai Thoại 2 Giai thoại thứ hai bắt nguồn từ hai chữ cổ nguyệt ghép lại thành chữ Hồ có người cho là của Chiêu Hổ chòng ghẹo bà. Người cổ lại còn đeo thói nguyệtBuồng xuân chi để lạnh mùi hương ? Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà, còn tách ra lại là sự trách khéo “Đã tự coi là người cổ hủ, trọng nề nếp, gia phong lại còn thích thói hưởng nguyệt, xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi xuân thì còn hương sắc, mà không gìn giữ nền nếp, gia phong thì buồng xuân còn để lạnh đến bao giờ ? Sát nhà là đền Trấn Võ, có gác chuông cao, treo quả chuông lớn, nhiều chàng nho sĩ đến thăm, cũng học đòi, ti toe làm thơ. Vốn táo tợn, Xuân Hương chẳng chịu tha cho những kẻ đầy bồ chữ nghĩa, tưởng thênh thang học rộng, tài cao mà toàn đồ chè chai giấy lộn ấy. Xuân Hương quyết lộn trái chúng ra – Được gặp các thầy nơi đền cao cửa kín này thật vinh hạnh, thóang trông đã rõ các thầy tài học uyên bác. Dám xin các thầy một bài thơ được không ạ ? -Tưởng việc gì chứ thơ thì sẵn lắm, cô cứ ra đề cho. -Dạ tiện đây xin các thầy vịnh quả chuông luôn, cứ lấy vần uông làm vần. -Tưởng được gãi đúng chỗ ngứa, ai ngờ vớ phải quả chuông rè, chuông câm, ngoài hai tiếng kêu “bính boong” là hết, biết gắn vần uông vào chỗ nào đây ? Ngần ngừ, mãi vẫn tắc tị, một thầy đánh liều gạ gẫm – Vần uông không ổn cô ạ, hay là… Biết tỏng mớ chữ nghĩa giấy lộn trong đôi bồ của các thầy không mấy đáng giá, Hồ Xuân Hương tung chưởng cho họ rơi từ đỉnh gác chuông tới… tận đáy hồ, không sao mọc mũi sủi tăm lên được – Sao lại không ? Em thử làm vài câu cho các thầy nghe nhé Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,Nó bảo nhau rằng ấy cái ở càng “sặc nước”, quần áo ướt sũng sĩnh vì mồ hôi, nước lạnh Hồ Xuân Hương dội lên đầu, các thầy đành ngớ ngẩn cười trừ rồi cút thẳng. Mỗi lần nhớ lại vần uông, cái chuông của thi sĩ họ Hồ, tên Hương lại buốt tận xương hông, không dám giở trò văn vẻ, chữ nghĩa ra trước bàn dân thiên hạ nữa. Cũng bởi nhà ở gần đền mà Hồ Xuân Hương hay thơ thẩn đi dạo, lần ấy đúng vào dịp Triều đình mở khoa thi, các sĩ tử, văn nhân từ khắp các tỉnh thành trong cả nước dập dìu về kinh thành Thăng Long dự thi rất đông. Trong số đó có “cậu ấm” con quan chánh chủ khảo kỳ thi, cùng đám bạn vàng giầu có. Nhân chơi hồ Hoàn Kiếm thấy cảnh Đền đẹp liền kéo vào. Để tỏ rõ tài thơ phú trước đám bạn vàng, cậu con chánh chủ khảo liền “ Tức cảnh sinh tình” vịnh luôn một bài “thẩn” đề vào ngay vách Đền làm “ kỷ niệm” Khen ai đổ đất đắp nên chùaMột nếp thù lù ở giữa hồ,Mặt nước bóng chiều đà bảng lảngLàm sao vẫn chửa thấy chuông khuơ. Xuân Hương đang thơ thẩn quanh đó, thấy mọi người cười cợt, chỉ trỏ, liền sà vào, bắt gặp bài thơ và tác giả “rặn thơ” liền ôm bụng cười ngặt nghẽo. Cười chán, bà mượn bút mực, vung tay đề tiếp bài thơ “cảnh tỉnh’ của mình bên cạnh để trả lời “cậu ấm” và một xâu đám bạn lòi tói- những cốc chén, sứt mẻ, rạn vành, gẫy quai, thích chơi trèo của chúng Dắt díu nhau lên đến cửa chiềnCũng đòi học nói, nói không nênAi về nhắn bảo phường lòi tóiMuốn sống đem vôi quét trả đền. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, gặp người khẩu khí chững chạc đến thế, cậu ấm đành phải dựa cột…để nghe cho thủng, xong bấm bụng, xủng xong lốc nhốc kéo cả xâu chuỗi về. Chẳng bao giờ dám khoe dại, khoe khôn nơi vách đền nữa. Đền được trả lại vẻ đẹp cổ kính, u tịch trang nghiêm ban đầu. Vì sau đó chẳng ai dám vượt mặt “Bà chúa Thơ Nôm” để đề “thẩn” lên tường, làm bẩn tường nữa. Lại một lần nữa, lúc này tiếng tăm của bà đã nổi khắp thành Thăng Long. Đang lững thững từ chùa Trấn Quốc về Cổ Nguyệt đường thì nghe có tiếng lơi lả, chòng ghẹo ở phía sau, biết rõ căn bệnh ăn không nên đọi, nói chẳng thành lời của các thầy, Xuân Hương lẳng lặng men theo men hồ, đến sát chân núi Nùng, cạnh nhà, mới dùng lời sắc như dao để cắt đuôi – Chả mấy khi được gặp các thầy, em xin đọc hầu các thầy một bài nhé Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây chị dạy phép làm thơOng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc dậu thưa. Nghe khẩu khí biết ngay là Hồ Xuân Hương, các thầy ngượng chín cả người. Tưởng đánh trống qua cửa nhà trời, ai ngờ sấm dội, mưa chan…gẫy cả dùi, vỡ cả trống. Tứ, ngũ túc dúm hết lại, suýt thì lộn cổ xuống hồ. Chờ cho Xuân Hương tung tăng vào hẳn trong nhà, các thầy mới dám xiêu vẹo bước. Thật chẳng cái dại nào giống cái dại nào. Đã ngứa nọc, buồn sừng lại gặp phải dậu thưa, hoa rữa, gỡ chẳng ra lại còn bị cười lỡm đến thối nọc, gẫy sừng. Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Hồ Xuân Hương Điểm qua các nét chính trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Tư liệu cuộc đời ít ỏi xung quanh Hồ Xuân Hương nhiều tranh cãi thế nhưng chúng ta không thể phủ nhận những giá trị trong thơ của bà mang lại cho độc giả. Tác phẩm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là những bài thơ viết bằng chữ nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật tám câu bảy chữ và thất ngôn tứ tuyệt bốn câu bảy chữ. Một số tác phẩm thơ nôm của bà Bà Lang Khóc Chồng, Bạch Đằng Giang Tạm Biệt, Bài Ca Theo Điệu Xuân Đình Lan, Bánh Trôi Nước, Bọn Đồ Dốt, Cái Quạt, Cảnh Làm Lẽ, Cái Quạt Giấy 1, Cái Quạt Giấy 2… Nổi bật trong sáng tác của Hồ Xuân Hương có bài thơ Tự tình, là tiếng nói của những thân phận, những khao khát của một kiếp người thấp cổ bé họng. Bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt, khát khao sống tự do và hạnh phúc của người phụ nữ. Tự tình còn là nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình, bà khao khát có được hạnh phúc, được yêu thương từ bậc quân tử. Bà nổi tiếng với các tác phẩm thơ Nôm nên từng được nhà thơ Xuân Diệu suy tôn là “Bà chúa thơ Nôm”. Thơ của Hồ Xuân Hương vừa thanh vừa tục, chủ yếu viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam, về thói hư tật xấu của nhà sư, thầy đồ thời phong kiến. Bà cũng có một số bài thơ viết bằng chữ Hán, đến nay, tác phẩm thơ chữ Hán của bà chỉ còn lại rất ít bài, trong đó có 5 bài thơ đã ông Trần văn Giáp công bố năm 1962 gồm Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Độ Hoa Phong, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương. Đón đọc thêm chùm🌿Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm 🌿 Hay Nhất Phong Cách Thơ Hồ Xuân Hương Tìm hiểu chi tiết về phong cách thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Những sáng tác của Hồ Xuân Hương chủ yếu xoay quanh người phụ nữ. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Thơ của Hồ Xuân Hương còn mang tính chế giễu, phê phán thói hư tật xấu trong xã hội lúc bấy giờ. Một giọng thơ mang đậm tính hiện thực, đó là tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, muốn hòa mình cùng thiên nhiên. Là sự khát khao trong cuộc sống mong muốn thoát khỏi chế độ phong kiến khắc nghiệt. Cảnh vật trong thơ của bà luôn giàu sức sống và tươi mới. => Có thể nói thơ của Hồ Xuân Hương là một dòng thơ mang tính đấu tranh mạnh mẽ với chế độ phong kiến lạc hậu lúc bấy giờ. Nổi bật trong phong cách sáng tác của bà là sự đồng cảm với những số phận bất hạnh, sự khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ. Nghệ Thuật Thơ Hồ Xuân Hương Tìm hiểu thêm về nghệ thuật sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Sử dụng lớp ngôn từ và hình ảnh mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng phồn thực, Hồ Xuân Hương đã mang đến những bài thơ đa nghĩa, vừa thú vị, vừa sâu sắc. Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương hầu hết đều sử dụng bút pháp trữ tình. Bên cạnh Bút pháp “tả cảnh ngụ tình”, “bút pháp trữ tình – tự sự”, “bút pháp trữ tình – trào phúng, trào lộng”, Hồ Xuân Hương còn sử dụng bút pháp “đồng hiện” nhằm thông qua việc miêu tả “cái mình thấy” để miêu tả “cái mình cảm”. Hồ Xuân Hương rất chủ ý sử dụng tính từ chỉ màu trắng và màu đỏ vào sáng tác nghệ thuật để thể hiện những vẻ đẹp đặc trưng về hình thức và tâm hồn người phụ nữ. Hồ Xuân Hương còn sử dụng cả số từ để biểu đạt ý thơ. Từ láy cũng là một thành tựu về ngôn ngữ trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương luôn chú ý khai thác vẫn dụng ngoa ngữ tiếng chửi, thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt vào sáng tác thơ Nôm truyền tụng. Tổng hợp các thông tin về 🌿Thơ Lê Quý Đôn 🌿Đầy đủ nhất Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Hồ Xuân Hương, cùng tham khảo ngay nhé! *Đề vịnh Hạ Long Độ Hoa Phong Hải ốc trù Nhãn phóng thanh Nhập An Bang Thuỷ vân hương Trạo ca thanh *Đồ Sơn bát vịnh Đông Sơn thừa lương Long tỉnh quá trạc Phật động thâm u Đăng Đông Sơn tự kiến ký kỳ 1 Đăng Đông Sơn tự kiến ký kỳ 2 Tháp sơn hoài cổ Thạch phố quan ngư Bộ Khánh Minh tự cảm hứng Cốc tự tham thiền *Hương đình cổ nguyệt thi tập Quá Khinh Dao từ hoài cổ Bán chẩm thư hoài Đề Trấn Quốc tự Tái ngoại văn châm Thu vũ Cố kinh thu nhật Giang Nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân Vịnh thạch phu phụ Thu nhật tức sự *Lưu hương ký Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ Thiếu niên du điệu Xuân đình lan điệu Thu dạ hữu hoài Thu phong ca Nguyệt dạ ca kỳ 1 Nguyệt dạ ca kỳ 2 Ngư ông khúc hành Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu Hoài cựu Thu nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ ký Cảm cựu tống tân xuân chi tác kỳ 1 Cảm cựu tống tân xuân chi tác kỳ 2 Ngụ ý Tốn Phong ký nhị thủ kỳ 1 Ngụ ý Tốn Phong ký nhị thủ kỳ 2 Hoạ nhân Tặng Tốn Phong tử Thạch Đình tặng Ký Sơn Nam Thượng trấn Hiệp trấn Trần Hầu kỳ 1 Ký Sơn Nam Thượng trấn Hiệp trấn Trần Hầu kỳ 2 Hoạ Sơn Phủ chi tác Tốn Phong đắc mộng chí dữ ngã khán nhân thuật ngâm, tịnh ký Hoạ Tốn Phong nguyên vận Hoàng giang ngộ hữu hỉ phú Thệ viết hữu cảm Tự thán kỳ 1 Tự thán kỳ 2 Lưu biệt thời tại An Quảng, An Hưng ngụ thứ Bạch Đằng giang tặng biệt Chí Hiên tặng kỳ 1 Chí Hiên tặng kỳ 2 Hoạ Thanh Liên nguyên vận Nhân tặng Tưởng đáo nhân tình minh nhiên há lệ nhân nhi tẩu bút phụng trình Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 1 Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 2 Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 4 Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 5 Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 6 Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 7 Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 8 Xuân Hương tặng hiệp quận *Thơ truyền tụng Bánh trôi nước Bùn bắn lên đồ Cái giếng Cái quạt Canh khuya Cảnh thu Câu đối Tết Tối ba mươi – Sáng mồng một Chế sư Chi chi chuyện ấy Chơi hoa Chơi Khán Đài Chùa Hương Tích Chùa Sài Sơn Con cua Dệt cửi đêm Du cổ tự Duyên kỳ ngộ Dữ Phạm tế tửu xướng hoạ, kỳ nhị Đá chẹt thi Đá Ông Chồng, Bà Chồng Đàn gảy Đánh cờ Đánh đu Đề nhị mỹ nhân đồ Đi đái bùn nẩy Đọc cho Chiêu Hổ hoạ Đồng tiền hoẻn Đưa đò Qua sông phụ sóng Già kén kẹn hom Hạ nhật tầm phu Ngày hè tìm chồng Hang Cắc Cớ Hàng ư Thanh Quán hàng ở xứ Thanh Hỏi cô hàng sách Hỏi trăng Hữu cảm Khấp Vĩnh Tường quan Khóc chồng làm thuốc Khóc Tổng Cóc Không chồng mà chửa Ký tao nương Mộng Lan Gửi nữ sĩ Mộng Lan Lấy chồng chung Lỡm học trò Miếu Sầm thái thú Đề đền Sầm Nghi Đống Mời ăn trầu Mời trầu0 Mời khách ăn trầu Ngại ngùng Nguyệt hỡi đê mê Nhĩ Hà tức cảnh Núi Ba Đèo Núi Kẽm Trống Nước Đằng Ốc nhồi Phiếm chu ngoạn nguyệt Giong thuyền chơi trăng Quả mít Quá Nghệ An hoài giai nhân, hựu thể Quan Hậu sợ vợ Quán Sứ tự Sài Sơn thiên thị Chợ trời núi Thầy Sư hoạnh dâm Tát nước Tặng tình nhân Thân phận người đàn bà Thị Đểu thi Tự tình Tự tình 2 Tự tình 3 Thương Thương ôi phận gái Thương thay phận gái Tiễn người làm thơ Tình có theo ai Trách Chiêu Hổ Trào tăng Trúc Bạch hồ Tức sự Vấn nguyệt Vịnh bách chu – tức sương nữ Vịnh cái quạt Vịnh chung Vịnh dạy con trẻ Vịnh đời người Vịnh Hằng Nga Vịnh hoa cúc Vịnh nằm ngủ Vịnh ni sư Vịnh ông cắng đánh nhau Cái cắng đánh nhau Vịnh Thăng Long hoài cổ Vịnh xuyên cổ Vịnh trống thủng Vọng Tây Hồ hoài hữu Vô âm nữ Chia sẻ thêm về🌿Thơ Trần Tế Xương 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay 15 Bài Thơ Nổi Tiếng Của Hồ Xuân Hương Gửi đến bạn đọc 15 bài thơ nổi tiếng nhất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, cùng thưởng thức nhé! Bánh Trôi Nước Thân em thời trắng phận em tròn,Bảy nổi ba chìm mấy nước nát mặc dầu tay kẻ nặn,Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son. Thơ Tự Tình Tiếng gà xao xác gáy trên vòm,Oán hận trông ra khắp mọi thảm không khua mà cũng cốc,Chuông sầu chẳng đánh cớ sao nghe những tiếng thêm rầu rĩ,Sau hận vì duyên để mõm tử văn nhân ai đó tá,Thân này đâu đã chịu già tom. Vịnh Cái Quạt Mười bảy hay là mười tám đây,Cho ta yêu dấu chẳng dời dày chừng ấy chành ba góc,Rộng hẹp ngần nao cắm một nực bao nhiêu thời càng mát,Yêu đêm chẳng chán lại yêu hồng má phấn duyên vì cậy,Chúa dấu vua yêu một cái này. Vấn Nguyệt Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?Đêm tối cớ sao soi gác tía?Ngày xanh còn thẹn mấy vầng canh lơ lửng chờ ai đó?Hay có tình riêng mấy nước non? Cảnh Thu Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xoá tràng giang phẳng lặng dốc giang sơn say chấp rượu,Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơCho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Chùa Hương Tích Bày đặt vì ai khéo khéo vòm,Nứt ra một lỗ hổng hòm quen cửa Phật chen chân xọc,Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt nước hữu tình rơi thánh thót,Con thuyền vô trạo cúi lom tuyền quyến cả phồn hoa lại,Rõ khéo trời già đến dở dom. Họa Nhân Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,Sương pha khói biếc rộn thêm thơ trước viện, nhà khoe gió,Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,Trêu nhau chi những sợi cơ cầu. Đá Ông Chồng, Bà Chồng Khéo khéo bày trò tạo hoá công,Ông Chồng đã vậy lại Bà trên tuyết điểm phơ đầu bạc,Thớt dưới sương pha đượm má nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt,Khối tình cọ mãi với non kia còn biết xuân già giặn,Chả trách người ta lúc trẻ trung. Đánh Đu Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,Trai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa mảnh quần hồng bay phấp phới,Hai hàng chân ngọc duỗi song xuân có biết xuân chăng tá. Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! Hỏi Trăng Một trái trăng thu chín mõm mòm,Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,Ngoài khép đôi cung cánh vẫn mặt kẻ trần đua xói móc,Ngứa gan thằng Cuội đứng lom người bẻ quế rằng ai đó,Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm. Lấy Chồng Chung Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùngChém cha cái kiếp lấy chồng chungNăm chừng mười họa hay chăng chớMột tháng đôi lần có cũng khôngCố đấm ăn xôi xôi lại hỏngCầm bằng làm mướn mướn không côngNỗi này ví biết dường này nhỉThời trước thôi đành ở vậy xong. Duyên Kỳ Ngộ Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,Xin đừng lo lắng hết xuân gang tay hoạ thơ không dứt,Gần gụi cung dương lá vẫn sẵn bút đề dường chĩnh chện,Trống mang dùi cắp đã phanh không thả lá trôi dòng ngự,Chim tới vườn đào thế mới xinh. Mời Ăn Trầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,Này của Xuân Hương mới quệt phải duyên nhau thì thắm lại,Đừng xanh như lá, bạc như vôi. Ốc Nhồi Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,Đêm ngày lăn lóc đám cỏ tử có thương thì bóc yếm,Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. Quả Mít Thân em như quả mít trên cây,Da nó xù xì múi nó tử có yêu xin đóng cọc,Đừng mân mó nữa nhựa ra tay. Đừng bỏ lỡ các thông tin về 🔰Thơ Nguyễn Công Trứ 🔰Hay nhất
Hồ Xuân Hương là một trong những gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam, với tư tưởng mới mẻ và lối làm thơ phá cách, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều giá trị về việc nghiên cứu cho giới phê bình. Mặc dù sự nghiệp văn chương rất thành công nhưng Hồ Xuân Hương lại phải trải qua một cuộc đời nhiều bất hạnh, chính những nỗi đau ấy đã giúp cho tác giả đạt được thành tựu to lớn trên con đường sáng tác thi ca của mình. Vài nét về thân thế và cuộc đời của tài nữ họ Hồ Bà sinh năm 1772 tại Thăng Long có nguyên danh Hồ Phi Mai với biểu tự Xuân Hương, trong cuốn Giai nhân dị mặc chép rằng nhà thơ là con gái của Sinh đồ Hồ Phi Diễn, quê ở Nghệ An. Năm mười ba tuổi, sau khi thân phụ mất thì Hồ Xuân Hương theo mẹ về làng Thọ Xương đi học rồi ở nhà giúp việc. Bà có một tuổi thơ êm đềm ở dinh thự Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, khi ấy là nơi xa hoa bậc nhất Đàng Ngoài. Chân dung nhà thơ Hồ Xuân Hương Mẹ bà đã tái hôn với người khác sau khi mãn tang chồng, mặc dù sống trong ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến nhưng Hồ Xuân Hương vẫn có được tư chất thông minh và hiếu học, điều này được bộc lộ ở khả năng sáng tác tuyệt vời của bản thân. Thơ Hồ Xuân Hương được đánh giá cao với nét thanh thanh tục tục đặc sắc, những tác phẩm của bà đã đóng góp rất nhiều trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật cũng như là thể hiện những tư tưởng tiến bộ vượt khỏi khuôn khổ thời đại bấy giờ. Bìa cuốn Lưu hương ký Hồ Xuân Hương có tập Lưu hương ký nổi tiếng với nhiều bài thơ khác được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Sau này bà tập trung sáng tác với chữ Nôm và tính đến nay, thi sĩ đã để lại cho đời hơn 150 tác phẩm có giá trị. ề tựa cho thi tập Lưu hương ký được phát hiện năm 1964, nhà phê bình Tốn Phong viết “Tứ thơ dồi dào nhưng vẫn tỏ ra vui mà không buông tuồng; buồn mà không đau thương; khốn khổ mà không lo phiền; cùng mà không bức bách. Thật là do tính tình nghiêm chỉnh mà ra. Cho nên, khi hát lên, ngâm lên những lời thơ ấy, thì tay cứ muốn múa, châm cứ muốn dậm mà không tự biết. Lưu hương ký tuy đầy vẻ gió, mây, trăng, móc, nhưng đều tự đáy lòng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói, lại cũng đều đúng với cái ý trên kia là xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên ân nghĩa.” Bên cạnh đó còn có nhiều giai thoại truyền miệng về lối sống phong lưu của Hồ Xuân Hương rằng bà là một nữ tử tài sắc vẹn toàn cùng những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Phạm Quý Thích, Trần Ngọc Quán và Nguyễn Du. Theo các nhà nghiên cứu, bà mất năm 1822 tại Hà Nội, mặc dù đã tìm kiếm nhiều năm nhưng cho đến nay, ngôi mộ của Hồ Xuân Hương ở đâu và những bí ẩn xoay quanh cuộc đời nhà thơ vẫn là dấu hỏi lớn trong lòng hậu thế. Những bất hạnh trong tình duyên đã giúp Hồ Xuân Hương trở thành nhà thơ phụ nữ Bi kịch của Hồ Xuân Hương bắt đầu khi bà làm lẽ Tổng Cóc, một cường hào có tính ăn chơi và tiêu xài hoang phí nên chẳng bao lâu thì nhà cửa sa sút và cộng thêm việc vợ cả ghen vì ông yêu quý tài nghệ của Hồ Xuân Hương nên bà bỏ đi biệt, chỉ để lại một lá thư từ giã. Sau khi bỏ nhà đi, bà hạ sinh một người con gái nhưng được ba tháng thì chết yểu, Tổng Cóc có tìm đến đòi con nhưng vô vọng. Bà làm bài thơ Khóc Tổng Cóc gửi ông để khóc cho mối tình cũ của mình, hai người xem như đoạn tuyệt tình nghĩa phu thê. “Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi, Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng khôn chuộc “ – Khóc Tổng Cóc Sau này bà tiến đến với ông Phủ Vĩnh Tường, tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn và sinh cho ông một đứa con tên Phạm Viết Thiệu, thế nhưng hơn hai năm sau thì người chồng này của Hồ Xuân Hương cũng tạ thế. Có hai đời chồng không trọn vẹn đã khiến Hồ Xuân Hương mang tiếng sát phu Hai lần mất chồng đã khiến Hồ Xuân Hương thấm thía nỗi đau của những người phụ nữ phải chịu cảnh cô đơn nên khi nghe tiếng khóc từ bà lang, nhà thơ viết ra nhiều câu thơ thể hiện nỗi xót xa và đồng cảm sâu sắc. “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì, Thương chồng nên nõi khóc tì ti. Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo, Cay đắng chàng ơi vị quế chi. Thạch nhũ, trần bì sao để lại, Quy thân, liên nhục tẩm mang đi. Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ, Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.” – Bỡn bà lang khóc chồng Có những nhà thơ trung đại lên tiếng bênh vực người phụ nữ như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn nhưng họ không chân thực bằng Hồ Xuân Hương. Bởi bà đã trải qua nhiều bi kịch trong cuộc đời, nỗi đau đớn ấy đều lắng đọng trên trang thơ sắc sảo của Hồ Xuân Hương mà không ai có thể thay thế được. Nhờ đi qua những sóng gió trong cuộc đời nên tác giả là người có chung tiếng nói và nỗi lòng với phụ nữ thời ấy Nhà thơ từng trải qua hai lần làm lẽ nên bà thấu hiểu được cảm giác của những người phụ nữ cùng cảnh ngộ. Trong bài Lấy chồng chung, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rất rõ nỗi niềm chua xót ấy, đồng thời bà cũng lên án chế độ đa thê của xã hội phong kiến. “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ, Một tháng đôi lần có cũng không. Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng, Cầm bằng làm mướn mướn không công. Nỗi này ví biết dường này nhỉ, Thời trước thôi đành ở vậy xong.” – Lấy chồng chung Theo Hồ Xuân Hương thì việc làm lẽ là vô cùng tệ bạc và bất công đối với người phụ nữ. Bà đã kể ra những nỗi khổ khi làm lẽ và cho rằng đó như làm mướn không công cho thấy sự bi phẫn tột độ, kịch liệt lên án chế độ hôn nhân thời ấy. Xã hội phong kiến hà khắc khiến cho người phụ nữ phải luôn chịu đủ mọi thiệt thòi, họ quan niệm rằng đàn bà chưa chồng mà có con như phạm đại tội, bị cạo đầu bôi vôi suốt đời không xuất giá, thậm chí là phải chết. Nhà thơ vô cùng bi phẫn trước những quan niệm hà khắc của xã hội phong kiến Vậy mà đối với Hồ Xuân Hương, bà không những không lên án mà còn cất tiếng nói bênh vực họ. Bởi lẽ nhà thơ nhìn thấy được vẻ đẹp thật sự của những người phụ nữ ấy, đó là thiên chức của người mẹ không thể bỏ con mình. “Không chồng mới chửa ấy mới ngoan, Có chồng mà chửa thế gian sự thường.” – Không chồng mà chửa Mặc dù người phụ nữ phải chịu nhiều bất công và đau khổ như vậy nhưng họ vẫn giữ được sự hiền dịu và nhu mì vốn có của mình. Nhà thơ đã mượn hình ảnh bánh trôi nước để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình lẫn phẩm chất của người phụ nữ. Bài thơ Bánh trôi nước được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 7 Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, Hồ Xuân Hương đã sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện để thể hiện sự thông cảm và niềm tự hào đối với vẻ đẹp và tính cách của người phụ nữ Việt Nam. Bà đã để lại nhiều bài thơ có giá trị nghiên cứu ở cả nội dung lẫn nghệ thuật nhờ tài năng và những bất hạnh trong cuộc đời mình. Qua nhiều tác phẩm giàu tính nhân đạo ấy, Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam. Hồ Xuân Hương được suy tôn là bà chúa thơ Nôm Thơ Hồ Xuân Hương thường được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, thủ pháp vô cùng điêu luyện nhưng chữ Nôm lại có nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Bà được Xuân Diệu suy tôn là bà chúa thơ Nôm bởi những tác phẩm xuất sắc và tư tưởng mới mẻ của mình. Hồ Xuân Hương được xem là nhà thơ người kế thừa và phát huy tinh hoa của văn học dân gian một cách triệt để, điển hình nhất là ở hai câu thực trong bài Không chồng mà chửa. “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu sao đà nảy nét ngang.” – Không chồng mà chửa Nhà thơ đã mượn nghệ thuật chơi chữ với các chiết tự Hán làm cho câu thơ trở nên đa nghĩa, góp phần thể hiện nội dung trữ tình đặc sắc. Bên cạnh đó, thơ của Hồ Xuân Hương còn được các nhà phê bình nước ngoài đánh giá cao ở đặc sắc nghệ thuật đố thanh giảng tục để lên án xã hội phong kiến. “Mát mặt anh hùng khi tắt gió, Che đầu quân tử lúc sa mưa. Nâng niu ướm hỏi người trong trướng, Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?“ – Vịnh cái quạt I Nhà thơ đã mượn hình ảnh cái quạt để ca ngợi vẻ đẹp người thiếu nữ và miêu tả khát vọng phàm tục của những người đàn ông, bà không xem họ là hiền nhân quân tử chuẩn mực của xã hội mà chỉ đơn giản là kẻ phàm phu tục tử cũng có ham muốn trước cái đẹp. Bà là người thẳng thắn vạch rõ bộ mặt gian trá của những chuẩn mực đương thời Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ trào phúng khi bà cất tiếng cười khinh bỉ lên các tầng lớp thống trị bấy giờ. Bọn vua chúa quyền lực suy cho cùng thì cũng chỉ là những kẻ háo sắc, thích trêu hoa ghẹo nguyệt và xem phụ nữ là trò tiêu khiển của mình. “Càng nực bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chẳng chán lại yêu ngày. Hồng hồng má phấn duyên vì , một cái này.” – Vịnh cái quạt Hồ Xuân Hương còn là một trong những nhà thơ có công trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật vì bà không tuân theo hệ thống ước lệ của thơ cổ mà đột phá theo cách riêng của mình. Khi tìm đến bài Tự tình II thì sẽ bắt gặp được những từ ngữ vô cùng bình dị, khác xa với ngôn từ uyên bác mà thơ Đường quy định, nó có sức gợi hình độc đáo và mới mẻ. Bài thơ Tự tình II được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 11 Có lẽ vì vậy mà khi bàn về Hồ Xuân Hương, nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra nhận định “Lòng Xuân Hương có lửa, tay Xuân Hương có điện, nên các chữ đều sống cả lên, nó có thể bò lổm ngổm, có thể mấp máy, có thể bay, có thể duỗi, có thể khom khom, ngửa ngửa, nó có thể chũm chọe, hi ha, cốc om, khua, vỗ, nó có thể um, xoe, xóe, loét, rì; nó có thể nối nhau thành chuỗi vần vang động bom, chòm, om, mòm, tom, hoặc ọp ẹp heo, leo, kheo, teo, lèo; chúng ta có thể đố ai tìm được trong thơ Hồ Xuân Hương những chữ nào mà âm thanh bẹp dí, những chữ chết nào đứng trơ không cựa quậy ở trong câu. Đây không phải là kỹ thuật đâu! Đấy là tâm hồn truyền sức sống cho ngôn ngữ.” Hồ Xuân Hương thực sự là một tài năng thi ca xuất chúng của thời đại, bà không chỉ có những tư tưởng vượt ra khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà còn phá cách trong lối làm thơ. Những điểm độc đáo và mới mẻ trong thơ Hồ Xuân Hương không những giúp cho văn đàn Việt Nam trở nên phong phú mà còn góp phần vào việc nghiên cứu của các nhà phê bình. Hồ Xuân Hương thực sự xứng danh bà chúa thơ Nôm của Việt Nam. Ngàn thu vẫn lưu danh hậu thế Hồ Xuân Hương còn là một nhân vật vô cùng bí ẩn, có những câu hỏi xoay quanh cuộc đời của bà qua nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được kết quả chính xác. Có giai thoại cho rằng Hồ Xuân Hương từng là tình nhân của đại thi hào Nguyễn Du qua bài thơ mà bà viết như sau “Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung, Mượn ai tới đấy gửi cho cùng. Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, Phấn son càng tủi phận long đong. Biết còn mảy chút sương đeo mái, Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng trong.” Bài thơ có lời đề từ là gửi Hầu Nghi Xuân Tiên Điền Nhân tức là Nguyễn Du, theo các nhà phân tích thì họ có mối tình kéo dài đến ba năm nhưng đó cũng chỉ giả thiết. Bởi câu chuyện của họ không có sách vở nào ghi chép và nó đã trôi qua hàng trăm năm khiến cho việc tìm kiếm vô cùng khó khăn. Dẫu vậy thì Hồ Xuân Hương vẫn là một nhà thơ lớncủa nữ quyền thời phong kiến trong văn học trung đại Việt Nam. Sự sáng tạo trong phong cách thơ ca đã giúp Hồ Xuân Hương được tôn bà chúa thơ Nôm của dân tộc Việt. Hồ Xuân Hương là tượng đài bất tử của thơ Việt Những tác phẩm của bà có những đóng góp rất lớn cho việc nghiên cứu, các bài thơ được đưa vào chương trình Ngữ văn để bạn đọc có thể cảm nhận những cái hay cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ và nội dung giàu tính nhân đạo, từ đó sẽ tự hào về một thời đại từng có Hồ Xuân Hương tài năng như thế! Thúy Trân
Những Bài Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng Nhất ❤️️ Chùm Thơ Chữ Hán Hay ✅ Tổng Hợp Những Tập Thơ Xuất Sắc Nhất Của Bà Chúa Thơ Nôm Dưới Đây. Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi TiếngTuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất HủCác Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất HủTập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất HủChùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nhà thơ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Mời các ban đọc thưởng thức ngay Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng sau đây Bánh Trôi Nước Thân em vừa trắng lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước nát mặc dầu tay kẻ em vẫn giữ tấm lòng son. Bỡn bà lang khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gìThương chồng nên nõi khóc tì tiNgọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảoCay đắng chàng ơi vị quế chiThạch nhũ, trần bì sao để lạiQuy thân, liên nhục tẩm mang điDao cầu thiếp biết trao ai nhỉSinh ký chàng ơi, tử đắc quy. Cái kiếp tu hành Cái kiếp tu hành nặng đá đeoVị gì một chút tẻo tèo teoBuồm từ cũng muốn về Tây TrúcTrái gió cho nên phải lộn lèo Cái nợ chồng con Hỡi chị em ơi có biết khôngMột bên con khóc một bên chồngBố cu lổm ngổm bò trên bụngThằng bé hu hơ khóc dưới hôngTất cả những là thu với vénVội vàng nào những bống cùng bôngChồng con cái nợ là như thếHỡi chị em ơi có biết không Chùa Quán Sứ Quán Sứ sao mà cảnh vắng teoHỏi thăm sư cụ đáo nơi neoChày kinh, tiểu đế suông không đấmTràng hạt vãi lần đếm lại đeoSáng banh không kẻ khua tang mítTrưa trật nào ai móc kẽ rêuCha kiếp đường tu sao lắt léoCảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo Chợ Trời chùa Thầy Hoá công xây đắp đã bao đời,Nọ cảnh Sài Sơn có chợ sớm gió đưa trưa nắng đứng,Ban chiều mây họp, tối trăng hàng hoa quả tứ mùa sẵn,Mở phố giang sơn bốn mặt lợi mua danh nào những kẻ,Chẳng nên mặc cả một đôi lời. Cảnh chùa ban đêm Tình cảnh ấy, nước non nàyDẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đâyHành Sơn mực điểm đôi hàng nhạnThứu Lĩnh đen trùm một thức mâyLấp ló đầu non vầng nguyệt chếchPhất phơ sườn núi lá thu bayHỡi người quân tử đi đâu đóThấy cảnh sao mà đứng lượm tay Cảnh thu Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xóa tràng giang phẳng lặng giốc giang sơn say chấp rượu,Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơCho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Ngoài bà chúa thơ nômGiới thiệu đến bạn đọc chùm 🌻 Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm 🌻 trào phúng Tuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất Hủ Có thể nói nét nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Cùng cảm nhận rõ hơn qua Tuyển Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Đặc Sắc được sưu tầm dưới đây nhé! Dệt cửi Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phauCon cò mấp máy suốt đêm thâuHai chân đạp xuống năng năng chắcMột suốt đâm ngang thích thích mauRộng hẹp nhỏ to vừa vặn cảNgắn dài khuôn khổ cũng như nhauCô nào muốn tốt ngâm cho kỹChờ đến ba thu mới dãi màu Dỗ người đàn bà khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồngNín đi kẻo thẹn với non sôngAi về nhắn nhủ đàn em béXấu máu thì khem miếng đỉnh chung Đá Ông Chồng Bà Chồng Khéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐã kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trung Đài Khán Xuân Êm ái chiều xuân tới khán đàiLâng lâng chẳng bợn chút trần aiBa hồi triêu mộ chuông gầm sóngMột vũng tang thương nước lộn trờiBể ái nghìn trùng khôn tát cạnNguồn ân muôn trượng dễ khơi vơiNào nào cực lạc là đâu táCực lạc là đây chín rõ mười Đánh đu Bốn cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngTrai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân hạc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng táCọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không Đèo Ba Dội Một đèo, một đèo, lại một đèoKhen ai khéo tạc cảnh cheo leoCửa son đỏ loét tùm hum nócHòn đá xanh rì lún phún rêuLắt lẻo cành thông cơn gió thốcĐầm đìa lá liễu giọt suơng gieoHiền nhân quan tử ai mà chẳngMỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo Đền Sầm Nghi Đống Ghé mắt trông ngang thấy bảng treoKìa đền thái thú đứng cheo leoVí đây đổi phận là trai nhỉThì sự anh hùng há bấy nhiêu! Động Hương Tích Bày đặt kia ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm homNgười quen cõi Phật xen chân xoạcKẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòmGiọt nước hữu tình rơi thánh thótCon thuyền vô trạo cúi lom khomLâm tuyền quyến cả phồn hoa lạiRõ khéo trời già đến dở dom Giếng thơi Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ trắng phau phau đôi ván ghép,Nuớc trong leo lẻo một dòng gà lún phún leo quanh mép,Cá diếc le te lách giữa ấy thanh tân ai cũng biết,Đố ai dám thả nạ dòng dòng. Hang Cắc Cớ Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm hai mảnh hỏm hòm homKẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻnLuồng gió thông reo vỗ phập phòmGiọt nước hữu tình rơi lõm bõmCon đường vô ngạn tối om omKhen ai đẽo đá tài xuyên tạcKhéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm Đón đọc thêm 🔻 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🔻 bất hủ Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”, bởi vậy Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương luôn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho các bạn đọc, mỗi bài thơ đều là những tâm tư tình cảm mà tác giả gửi gắm vào. Hang Thánh Hoá Khen thay con tạo khéo khôn phàmMột đố giương ra biết mấy ngoàmLườn đá cỏ leo sờ rậm rạpLách khe nước rỉ mó lam nhamMột sư đầu trọc ngồi khua mõHai tiểu lưng tròn đứng sau amĐến mới biết là Hang Thánh HoáChồn chân mỏi gối vẫn còn ham! Hỏi trăng Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?Năm canh lơ lửng chờ ai đó?Hay có tình riêng với nước non? Khóc ông phủ Vĩnh Tường Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!Cái nợ ba sinh đã trả chặt văn chuơng ba thước đất,Tung hê hồ thỉ bốn phương cân tạo hóa rơi đâu mất,Miệng túi càn khôn khép lại bảy tháng trời là mấy chốc,Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi! Không chồng mà chửa Cả nể cho nên hoá dở dangNỗi niềm chàng có biết chăng chàngDuyên thiên chưa thấy nhô đầu trọcPhận liễu sao đà nảy nét ngangCái nghĩa trăm năm chành nhớ chửaMảnh tình một kiếp thiếp xin mangQuản bao miệng thế lời chệnh lệchKhông có, nhưng mà có, mới ngoan Kẽm Trống Hai bên thì núi giữa thì sôngCó phải đây là Kẽm Trống không?Gió giật sườn non khua lắc cắcSóng dồn mặt nước vỗ long ongỞ trong hang núi còn hơi hẹpRa khỏi đầu non đã rộng thùngQua cửa mình ơi! Nên ngắm lạiNào ai có biết nỗi bưng bồng Làm lẽ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùngChém cha cái kiếp lấy chồng chungNăm thì mười họa hay chăng chớMột tháng đôi lần có như khôngCố đấm ăn xôi xôi lại hẩmCầm bằng làm mướn mướn không côngThân này ví biết dường này nhỉThà trước thôi đành ở vậy xong Lũ ngẩn ngơ Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơÔng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc giậu thưa Miếng trầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôiNày của Xuân Hương đã quệt rồiCó phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi Phường lòi tói Dắt díu nhau lên đến cửa chiềnCũng đòi học nói, nói không nênAi về nhắn bảo phường lòi tóiMuốn sống đem vôi quét trả đền. Quan thị Mười hai bà mụ ghét chi nhauĐem cái xuân tình vứt đi đâuRúc rích thây cha con chuột nhắtVo ve mặc mẹ cái ong bầuĐố ai biết đó vông hay trốcCòn kẻ nào hay cuống với đầuĐã thế thì thôi thôi mặc thếTrăm năm càng khỏi tiếng nương dâu Bật mí cho bạn đọc tập 💙 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi 💙 nổi tiếng Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Tiếp theo là Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ, mời bạn đọc cùng đón đọc thêm nhé! Sư bị ong châm Nào nón tu lờ nào mũ thâmĐi đâu chẳng đội để ong châmĐầu sư há phải gì… bà cốtBá ngọ con ông bé cái nhầm Sư hổ mang Chẳng phải Ngô, chẳng phải taĐầu thì trọc lốc áo không tàOản dâng trước mặt dăm ba phẩmVãi núp sau lưng sáu bảy bàKhi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹGiọng hì, giọng hỉ, giọng hi haTu lâu có lẽ lên sư cụNgất nghểu toà sen nọ đó mà Tát nước Đang cơn nắng nực chợt mưa tèRủ chị em ra tát nước kheLẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụmLênh đênh một ruộng bốn bờ beXì xòm đáy nước mình nghiêng ngửaNhấp nhổm bên ghềnh đít vắt veHam việc làm ăn quên cả mệtDạng hang một lúc đã đầy phè Thiếu nữ ngủ ngày Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,Thiếu nữ nằm chơi quá giấc trúc lỏng cài trên mái tóc,Yếm đào trễ xuống dưới nương gò Bồng Đảo hương còn ngậm,Một mạch Đào Nguyên suối chửa tử dùng dằng đi chẳng dứtĐi thì cũng dở ở không xong. Tranh tố nữ Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?Chị cũng xinh mà em cũng lứa như in tờ giấy năm còn mãi cái xuân mai chi dám tình trăng gió,Bồ liễu thôi đành phận mỏng manhCòn thú vui kia sao chẳng vẽ,Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình. Trăng thu Một trái trăng thu chín mõm mòmNày vừng quế đỏ, đỏ lòm lomGiữa in chiếc bích khuôn còn méoNgoài khép đôi cung cánh vẫn khòmGhét mặt kẻ trần đua xói mócNgứa gan thằng Cuội đứng lom khomHỡi người bẻ quế rằng ai đóĐó có Hằng Nga ghé mắt dòm Trống thủng Của em bưng bít vẫn bùi ngùiNó thủng vì chưng kẻ nặng vắng đập tung dăm bảy chiếc,Đêm thanh đánh lộn một đôi dang thẳng cánh bù khi cúi,Chiến đứng không thôi lại chiến nhủ ai về thương lấy với,Thịt da ai cũng thế mà thôi. Tự tình I Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,Oán hận trông ra khắp mọi thảm không khua mà cũng cốc,Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,Sau giận vì duyên để mõm tử văn nhân ai đó tá?Thân này đâu đã chịu già tom! Tự tình II Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,Trơ cái hồng nhan với nước rượu hương đưa say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,Xiên ngang mặt đất, rêu từng toạc chân mây, đá mấy nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con! Tự tình III Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,Giữa dòng khao khát nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai láng,Nửa mạn phong ba luống bập lái mặc ai lăm đỗ bến,Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ai thăm ván cam lòng vậy,Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh. Vịnh cái quạt Mười bảy hay là mười tám đây,Cho ta yêu dấu chẳng rời dày chừng ấy, chành ba góc,Rộng hẹp dường nào, cắm một nóng bao nhiêu thời càng mát,Yêu đêm không phỉ lại yêu hồng má phấn duyên vì cậy,Chúa dấu vua yêu một cái này. Vịnh cái quạt II Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,Duyên em dính dán tự bao ra ba góc da còn lại đôi bên thị vẫn mặt anh hùng khi tắt gió,Che đầu quân tử lúc sa niu ướm hỏi người trong trướng,Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ? Gửi tặng bạn chùm 💜 Thơ Chữ Hán Của Hồ Chí Minh 💜 hay nhất Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Đừng bỏ lỡ Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất được sưu tầm sau đây Độ Hoa Phong – 渡華封 片帆無急渡華封,峭壁丹崖出水中。水勢每隨山面轉,山形斜靠水門通。魚龍雜處秋煙薄,鷗鷺齊飛日照紅。玉洞雲房三百六,不知誰是水晶宮。 Phiên âm Hán Việt Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,Tiễu bích đan nhai xuất thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,Sơn hình tà kháo thủy môn long tạp xử thu yên bạc,Âu lộ tề phi nhật chiếu động vân phòng tam bách lụcBất tri thùy thị Thủy Tinh cung Dịch nghĩa Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng nước tùy chỗ theo mặt núi mà biến núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh. 過京瑤祠懷古 – Quá Khinh Dao từ hoài cổ 山海桑蓬古已來,長途著腳乍關懷。庭前象馬銀雙鎖,宮裡衣冠玉一堆。草木暗隨冬雪老,江山還為昔人哀。皇天有意開新運,風捲紅塵拂劫灰。 Phiên âm Hán Việt Sơn hải tang bồng cổ dĩ lai,Trường đồ trước cước sạ quan tiền tượng mã ngân song toả,Cung lý y quan ngọc nhất mộc ám tuỳ đông tuyết lão,Giang sơn hoàn vị tích nhân thiên hữu ý khai tân vận,Phong quyển hồng trần phất kiếp hôi. Hải ốc trù – 海屋籌 蘭橈隨意漾中流,景比山陽更覺幽。生面獨開雲露骨,斷鼇爭崎客回頭。馮夷疊作擎天柱,龍女添為海屋籌。大抵始皇鞭未及,古留南甸鞏金甌。 Phiên âm Hán Việt Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưuCảnh tỉ sơn dương cánh giác uSinh diện độc khai vân lộ cốtĐoạn ngao tranh kị khách hồi đầuBằng Di diệp tác kình thiên trụLong Nữ thiêm vi hải ốc trùĐại để Thuỷ Hoàng tiên vị cậpCố lưu Nam điện củng kim âu. Dịch nghĩa Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh,Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ,Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng,Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này,Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta. 半枕書懷 – Bán chẩm thư hoài 半天風雨半天晴,旅況淒涼入夢醒。吟客有神來色相,情魔無力卻愁兵。衾中半瘦風流骨,榻上平分海角情。一片無聊言不盡,塵寰安得眼雙清。 Phiên âm Hán Việt Bán thiên phong vũ bán thiên tình,Lữ huống thê lương nhập mộng khách hữu thần lai sắc tướng,Tình ma vô lực khước sầu trung bán sấu phong lưu cốt,Tháp thượng bình phân hải giác phiến vô liêu ngôn bất tận,Trần hoàn an đắc nhãn song thanh. Dịch nghĩa Nửa trời mưa gió, nửa trời tạnh quangTình cảnh ở quán trọ thê lương mê rồi tỉnhKhách ngâm thơ có thần đến dáng vẻMa tình không sức rụt vũ khí buồnLúc ngủ trong chăn thì hao nửa thân mình phong nhãKhi “thức” trên giường thì chia đều biển ái ânMột cảnh không hứng thú không tả hếtCõi trần thường thích cả đôi mắt xanh. 鎮北寺 – Đề Trấn Quốc tự 莊臨誰是景中人,細細清風扇扇薰。水月波籠蓮插茁,香煙寶憩露連雲。洗空塵慮花含態,喚醒迷途草亦春。到景令人回首望,東南拂袖鴈成群。 Phiên âm Hán Việt Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,Tế tế thanh phong phiến phiến nguyệt ba lung liên tháp truất,Hương yên bảo thoại lộ liên không trần lự hoa hàm thoại,Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc cảnh linh nhân hồi thủ vọng,ông nam phất tụ nhạn thành quần. Dịch nghĩa Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi nước sóng vờn sen chen nụ,Khói hương tàn bám móc liền sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc cảnh khuyên người quay đầu ngắm,Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn. 眼放青 – Nhãn phóng thanh 微茫螺黛拓滄溟,到此須教眼放青。白水磨成千刃劍,寒潭飛落一天星。怪形未已標三甲,神力奚庸鑿五丁。仿佛雲頹頭暗點,高僧應有坐談經。 Phiên âm Hán Việt Vi mang loa đại tháp thương minh,Đáo thử tu giao nhãn phóng thuỷ ma thành thiên nhẫn kiếm,Hàn đàm phi lạc nhất thiên hình vị dĩ tiêu tam giáp,Thần lực hề dung tạc Ngũ phất vân đồi đầu ám điểm,Cao tăng ưng hữu toạ đàm kinh. Dịch nghĩa Mầu lam nhạt mờ mờ nối trời xa với bể xa,Đến đây, tưởng như trong aắt toả sắc xanh bạc mài đá thành nghìn mũi gươm nhọn,Giữa đầm vắng, hình như có một sao trời sa đá hình kì quái không dễ dùng làm bảng đề danh kẻ đỗ đại khoa,Nếu không sức thần thì sao tạc nổi tượng lực sĩ hùng dũng như phất mây xuống thấp, phía trên đã xẩm tối,Chắc đã có vị cao tăng ngồi yên lặng tụng kinh. 塞外聞砧 – Tái ngoại văn châm 倏聞江鼓戍江城,忽得寒砧奏耳聽。續斷霜中驚雁陣,依稀壁下亂虫聲。征夫欲破深閨夢,遊子還添故國情。得意不知勤苦藥,管弦韻韻間雞鳴。 Phiên âm Hán Việt Thúc văn giang cổ thú giang thành,Hốt đắc hàn châm tấu nhĩ đoạn sương trung kinh nhạn trận,Y hy bích hạ loạn trùng phu dục phá thâm khuê mộng,Du tử hoàn thiêm cố quốc ý bất tri cần khổ dược,Quản huyền vận vận gián kê minh. Dịch nghĩa Chợt nghe tiếng trống ở thành bên sôngBất ngờ hợp với tiếng chày lạnh nhịp bên taiLúc vang lúc bặt trong màn sương khiến bầy nhạn kinh sợPhảng phất dưới chân tường dế kêu loạn xạNgười lính muốn phá giấc mộng nơi khuê phòng của vợKhách dạo thuyền càng thêm nặng tình cố quốcMải mê suy nghĩ mà không hay có liều thuốc chữa khổ luỵTiếng sáo hoà với tiếng đàn chen lẫn tiếng gà gáy bình minh. 故京秋日 – Cố kinh thu nhật 冉冉征塵秋月斜,一盃還送舊繁華。一蘇水潦西流盡,三島晴光北望賒。燈月青氈悲故物,霜前白露落誰家。此來相對重相憶,客久年深奈若何。 Phiên âm Hán Việt Nhiễm nhiễm chinh trần thu nguyệt tà,Nhất bôi hoàn tống cựu phồn Tô thuỷ lạo tây lưu tận,Tam Đảo tình quang bắc vọng nguyệt thanh chiên bi cố vật,Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ lai tương đối trùng tương ức,Khách cửu niên thâm nại nhược hà. 秋日即事 – Thu nhật tức sự 西風昨夜壓寒枝,籬菊蕭疏雪未飛。密雨斜篩紛水面,孤雲描織遠山眉。蓮餘殘夏留春帶,柳徬饒香老翠衣。啼鳥莫非知我況,聲聲長動故鄉思。 Phiên âm Hán Việt Tây phong tạc dạ áp hàn chi,Ly cúc tiêu sơ tuyết vị vũ tà si phân thuỷ diện,Cô vân miêu chức viễn sơn dư tàn hạ lưu xuân đới,Liễu bạng nhiêu hương lão thuý điểu mạc phi tri ngã huống,Thanh thanh trường động cố hương ty tư. Dịch nghĩa Đêm qua gió tây xô dạt cành câyDậu cúc lưa thưa tuyết chưa bayMưa lớn nghiêng đổ khuấy động mặt nước mặt phấn, mặt sángMây thưa thêu vẽ tránh xa nét mi xanh giống như màu núiSen thừa hạ hết dây xuân cũ sótLiễu tựa nhiều hương áo biếc xưaChim khóc chẳng ai không hiểu tình cảnh của mìnhTừng tiếng dài khuấy động tấm tình quê. 少年遊調 – Thiếu niên du điệu 瓊筳座花,𢒎觴對月,風流屬誰家?李子飛輝豪,徐妃援筆,思雅入詩歌。今夕是如何?促席談心。回燈敘事,撫筆一呵呵。 Phiên âm Hán Việt Quỳnh diên toạ hoa,Phi trường đối nguyệt,Phong lưu thuộc thuỳ gia?Lý tử phi hào,Từ phi viên bút,Tứ nhã nhập thi tịch thị như hà?Xúc tịch đàm đăng tự sự,Phủ bút nhất kha kha. 秋風歌 – Thu phong ca 秋風起兮白雲飛,草木黃落兮雁南歸。蘭有秀兮菊有芳,懷佳人兮不能忘。我有酒兮無對飲,我有琴兮無知音。不酌酒兮不鳴琴,數杯清茗兮故人心。 Phiên âm Hán Việt Thu phong khởi hề bạch vân phi,Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam hữu tú hề cúc hữu phương,Hoài giai nhân hề bất năng hữu tửu hề vô đối ẩm,Ngã hữu cầm hề vô tri chước tửu hề bất minh cầm,Sổ bôi thanh dính hề cố nhân tâm. 入安邦 – Nhập An Bang 浪跡風塵未迓繮,漂零書劍入安邦。渠爐天地心千里,蝸角山河眼一雙。詩價感雲山鬼泣,愁城僚者酒兵降。興含欲借倂州剪,剪此其風水半間。 Phiên âm Hán Việt Lãng tích phong trần vị nhạ cương,Phiêu linh thư kiếm nhập An lô thiên địa tâm thiên lý,Oa giốc sơn hà nhãn nhất soang song.Thi giá cảm vân sơn quỷ khấp,Sầu thành liêu giả tửu binh hàm dục tá Tinh châu tiễn,Tiễn thử kỳ phong thuỷ bán giang. 漁翁曲行 – Ngư ông khúc hành 野翁淡泊亦繁花,錯認桃源是薜蘿。寄語挳舟從釣子,過江應不聽琵琶。過江莫聽琵琶,高聲不似胡笳悽涼。桃源水闊山長,漁翁一棹仙堂半開。萬重春鎖天台,琴聲樂角聲哀不同。寒山草色蔥蔥,蘇溪幾到清風自閑。 Phiên âm Hán Việt Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,Thác nhận Đào Nguyên thị bệ ngữ khinh chu tòng điếu tử,Quá giang ưng bất thính tỳ giang mạc thính tỳ bà,Cao thanh bất tự Hồ già thê nguyên thuỷ khoát sơn trường,Ngư ông nhất trạo tiên đường bán trùng xuân toả Thiên Thai,Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất sơn thảo sắc thông thông,Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn. Dịch nghĩa Lão nhà quê ăn lạt mặc mỏng mà vẫn phong lưuÁo thô mà cứ tưởng sống cảnh tiênGởi lời người phụ câu quay thuyền vềQua sông không nghe được tiếng tỳ bàQua sông chớ nghe tiếng tỳ bàÂm cao không giống kèn Hồ thê lươngĐào Nguyên sông rộng núi dàiNgư ông chăm chú chèo, cửa tiên hé raVạn trùng xuân bến Thiên ThaiTiếng đàn vui, tiếng tù buồn không hoàNúi lạnh sắc cỏ xanh xanhSuối Tô tự đầy, gió mát tự nhàn 水雲鄉 – Thuỷ vân hương 雲根石竇似蜂房,滿目山光接水光。涉海鑿山癡李勃,負舟藏壑拜元章。螺痕夕霽嶙峋出,霧影朝迷次第藏。漫說漁人舟一葉,教重門戶水雲鄉。 Phiên âm Hán Việt Vân căn thạch đậu tự phong phòngMãn mục sơn quang tiếp thuỷ quangThiệp hải tạc hà si Lí BộtPhụ chu tàng hác bái Nguyên ChươngLoa ngân tịch tễ lân tuần xuấtVụ ảnh triêu mê thứ đệ tàngMạn thuyết ngư nhân chu nhất diệpSổ trùng môn hộ Thuỷ Vân hương. Dịch nghĩa Dưới chân mây, bày hang đá như tổ ông;Đầy mặt thấy ánh sáng trên núi tiếp với ánh sáng dưới bể để đi đục núi như Lí Bột thật là ngây,Đột thuyền lên cạn giấu trong hang như Nguyên Chương thì đáng phụcBuổi chiều trời lạnh, sóng gợn lăn tăn hiện ra,Ban sáng màn mù che núi lần lượt rút chuyện bảo rằng người chài dong chiếc thuyền kia,Đang len lỏi qua nhiều từng cửa tìm vào làng Tiên. 秋雨 – Thu vũ 天隔雲陰慘不明,蕭蕭秋雨落閒庭。短長枯樹枝頭淚,舒急黃蕉葉上聲。吟斷低迷千里夢,愁牽寥落五更情。深閨最苦如花面,一片愁容畫不成。 Phiên âm Hán Việt Thiên cách vân âm thảm bất minh,Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn trường khô thụ chi đầu lệ,Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng đoạn đê mê thiên lý mộng,Sầu khiên liêu lạc ngũ canh khuê tối khổ như hoa diện,Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành. Dịch nghĩa Bầu trời mây che tăm tối ảm đạmMưa thu tí tách rơi ngoài sân vắngNhánh cây khô giọt lệ ngắn dàiLá chuối vàng tiếng giũ chậm nhanhKhóc dứt đê mê ngàn dặm mộngSầu vương lác đác năm canh tìnhPhòng khuê thật buồn như mặt hoaHình dáng nỗi buồn không hoạ được Xem thêm tập 💚 Thơ Chữ Hán 💚 Những Bài Nổi Tiếng Tình Yêu, Cuộc Sống
thơ trào phúng hồ xuân hương