thơ văn lý trần tập 1
Ðúng là trong bài viết " Nguyễn Ðức Vân: một người xứ Nghệ " đăng trên Tạp chí Văn hoá Nghệ An số 124 ra ngày 10 tháng 5 năm 2008 vừa qua tôi đã nói đến công phu sưu tầm dịch thuật Thơ văn Lý - Trần của nhạc phụ tôi cùng với bác Ðào Phương Bình mà trong Lời mở đầusách Thơ văn Lý - Trần tập I xuất
Kết luận. Thơ Thiền trong thời kỳ văn học Lý-Trần đã thể hiện những tư tưởng hết sức độc đáo. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cõi Đạo và cõi Đời. Những bậc Thiền sư đã đem chất Đạo vào Đời và Đạo được nhìn dưới con mắt của Đời trần thế. Đọc
Nguyễn Công Lý, Văn học Việt Nam thời Lý - Trần, giáo trình, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí Minh, 2018; Nguyễn Huệ Chi, Khảo luận văn bản trong thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, 1977; Bài viết (tạp chí chuyên ngành), luận văn:
Vay Tiền Home Credit Online Có An Toàn Không. Ảnh Internet Làm nên thành tựu lớn lao đó, có sự đóng góp không nhỏ của những nhân tài Phật giáo – những vị Thiền sư – những trí thức tinh hoa của thời đại ấy. Họ không chỉ đóng góp trí tuệ, công sức trong việc kiến tạo vương triều Lý, bảo vệ, gìn giữ và phát huy những thành quả của nhà Lý trong suốt nhiều năm sau đó, mà còn là lực lượng chủ yếu đặt nền móng xây dựng và phát triển văn hóa, đặc biệt là văn học thời Lý. Trong việc xây dựng và phát triển văn học thời Lý ấy, sự đóng góp nổi bật nhất, thành tựu to lớn nhất của các tác giả - thiền sư thời Lý là ở mảng/loại hình thơ Đường luật. Điều này thể hiện trên một số phương diện sau Thứ nhất, về đội ngũ tác giả Trong số 57 tác giả hữu danh có tác phẩm in trong sách “Thơ văn Lý - Trần” Ủy ban KHXH Việt Nam – Viện Văn học – Nxb KHXH, H, 1977, Tập 1, có đến 39 tác giả chiếm 70% là nhà sư / thiền sư. Đứng đầu đội ngũ thiền sư - tác giả thơ Đường luật thời Lý ấy là Thiền sư Vạn Hạnh ? – 1018. Ông không chỉ là người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua khai mở triều Lý bởi những sáng tác thơ Đường luật thể sấm từ thời Lê Sơ, mà còn là người khai mở thơ Đường luật, cũng là khai mở văn học thành văn thời Lý. Điều đặc biệt nữa là, trong 39 thiền sư - tác giả thơ Đường luật thời Lý ấy có Một người là nữ - Ni sư Lý Ngọc Kiều pháp danh là Diệu Nhân. Và, vinh hạnh thay, Bà cũng là Một trong Hai Nữ tác giả văn học Đầu tiên trong lịch sử văn học thành văn Việt Nam. Những con số trên thật ấn tượng! Thứ hai, về số lượng tác phẩm Do nhiều nguyên do khác nhau, mà nguyên do chủ yếu là chiến tranh, di sản văn học viết thời Lý hiện còn, được tập hợp in thành sách không nhiều. Đúng như nhà thơ Lý Tử Tấn sống vào giữa thế kỷ XV, nhận định “Phần còn lại chỉ là một, hai trong trăm ngàn phẩn” những sáng tác của các nhà văn thời Lý. Những tác phẩm thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý cũng chịu chung số phận như vậy. Tuy thế, với số lượng tác giả là nhà sư/thiền sư chiếm số lượng lớn nói ở trên, không khó hiểu khi số lượng tác phẩm để lại được tập hợp trong sách Thơ văn – Lý-Trần của các tác giả là nhà sư cũng chiếm số lượng nhiều nhất. Cụ thể, trong 109 tác phẩm thành văn ở cả hai loại hình văn và thơ, tác phẩm của các nhà sư chiếm số lượng nhiều hơn, với 67 tác phẩm trên 60%. Trong số 67 tác phẩm văn học ấy, đa số các tác phẩm thuộc loại hình thơ ca có 59 tác phẩm, chiếm gần 90%, số tác phẩm thuộc loại hình văn bài văn ngắn và bi ký chỉ có 08 tác phẩm. Căn cứ vào nội dung tác phẩm, thơ ca thời Lý có 4 thể chủ yếu, là thơ sấm vĩ, thơ suy lý, thơ trữ tình, thơ tự sự. Có một điểm chung là, để chuyển tải nội dung trên, các nhà thơ – thiền sư thời Lý đều sử dụng / vận dụng hình thức / vỏ là thơ Đường luật đương nhiên là viết bằng chữ Hán. Như vậy, 59 tác phẩm thơ ca thơ, kệ của các nhà thơ-thiền sư thời Lý là thơ Đường luật Việt Nam. Trong di sản thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý ấy, có một số tác phẩm như Bài thơ “Thị đệ tử” Bảo với đồ đệ của Thiền sư Vạn Hạnh ? – 1018, bài thơ “Đáp nhân tri túc chi vấn” Trả lời người hỏi về hai chữ “Tri túc” của nhà sư Nguyễn Trí Bảo ?-1190, bài kệ “Hưu hướng Như Lai” Đừng theo bước Như Lai của Thiền sư Nguyễn Quảng Nghiêm 1122-1191, bài thơ “Cáo tật thị chúng” Có bệnh bảo mọi người của Đại sư Mãn Giác 1052- 1096,… được đánh giá là những tác phẩm đỉnh cao của văn học thời Lý. Thứ ba, về nội dung tác phẩm Những thiền sư - nhà thơ Đường luật thời Lý quan tâm, phản ánh trong các tác phẩm của mình hầu hết mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ, hùng cường, ổn định, lâu dài. Song, một mảng đề tài lớn, một xu hướng sáng tác nổi bật nhất của các thiền sư - nhà thơ Đường luật đời Lý qua những tác phẩm thơ Đường luật để lại nói đến trên đây là mảng đề tài về Con Người trong sự chi phối / ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo và trong mối quan hệ Tam giáo Phật - Lão - Nho. Phật giáo là tôn giáo ngoại lai, từ bên ngoài truyền vào nước ta từ lâu, đến thời Lý nó đã “cắm rễ” sâu bền, và đã trở thành Quốc giáo. Nhưng những vấn đề cơ bản nhất của Phật giáo cũng là vấn đề của không riêng Phật giáo, như “sống - chết”, “sinh-lão-bệnh-tử”, “sắc - không”, “xuất thế - nhập thế”, “tâm – pháp”, “niết bàn”,…là gì vẫn chưa phải là đã được những người theo đạo Phật và xã hội thấu đạt. Để làm sáng tỏ những phạm trù đó, đồng thời để tháo gỡ những băn khoăn, cũng là những cản trở con đường đến với “giác ngộ”, “giải thoát”, “niết bàn”,…của phật tử, nhiều vị thiền sư đã đưa ra những kiến giải của mình. Và, thật cao siêu, những kiến giải mang tính triết lý đó phần lớn được các nhà sư chuyển tải dưới dạng thơ ca theo thể Đường luật. Trong khuôn khổ một bài viết, tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu vấn đề “sống - chết”, “sinh - lão - bệnh - tử” qua một số tác phẩm của các thiền sư – nhà thơ Đường luật thời Lý. Không chỉ trong thời hiện đại mà trước đó, đã có không biết bao người đã hỏi một câu hỏi “Sống tự đâu đến, chết đi về đâu?” Sinh tòng hà lai, tử tòng hà khứ?. Là những phật tử, các thiền sư – nhà thơ Đường luật thời Lý cũng đau đáu đi tìm lời giải cho câu hỏi lớn đó. Và, rất nhiều người trong số họ đã đưa ra câu trả lời; trong đó, phần lớn những câu trả lời này hiện vẫn được những học giả đương đại tan đồng và quảng bá. Thiền sư – nhà thơ Đường luật đầu tiên ở đời Lý nói đến vấn đề sinh – tử trong thơ là nhà sư Đào Thuần Chân ?-1101. Vấn đề này được Ngài đưa ra khi sắp viên tịch, qua bài kệ “Thị đệ tử Bản Tịch” Bảo học trò Bản Tịch. Dịch nghĩa Bản tính chân như thường không có tính Làm sao có thể từng sinh diệt? Thân thể là hiện tượng sinh diệt Thể tính của hiện tượng chưa từng sinh diệt. Dịch thơ Đỗ Văn Hỷ “Chân tính” thường không tính Sinh diệt có bao giờ Thân là nguồn sinh diệt Pháp tính vẫn như xưa. Qua bài kệ trên, ta có thể thấy nhà sư Thuần Chân cho rằng trong vũ trụ không có gì tồn tại độc lập, riêng biệt tuyệt đối. Tất cả đều tương đối như “có” với “không”, “sinh” với “diệt”, “niết bàn” với “luân hồi”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục khi đọc bài thơ trên của Thuần Chân, cho rằng Chừng nào còn đi tìm “niết bàn” là vì còn ở trong “luân hồi”, đến khi đạt đến “niết bàn” thực sự rồi thì “luân hồi” cũng mất theo. Đấy là tùy theo quan điểm nhìn vậy. Ở trong cái ý thức thuần lý thì có “vật” và “ngã” là hai lưỡng nguyên, vượt lên ý thức trực giác hợp cả tình lẫn lý thì “vật” mất mà “ngã” cũng mất. Nguyễn Đăng Thục – Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận hóa, 1997, tr 310. Không lâu sau sư Thuần Chân, nữ thi sĩ đầu tiên của văn học Việt Nam - Ni sư Diệu Nhân 1041-1113 đã đặt ra và giải quyết trực điện vấn đề sinh - lão - bệnh - tử ngay từ tên một bài kệ là “Sinh lão bệnh tử” Sinh lão bệnh tử Tự cổ thường nhiên Dục cầu xuất ly Giải phọc thiêm triền Mê chi cầu Phật Hoặc chi cầu Thiền Thiền, Phật bất cầu Đỗ Uổng khẩu vô ngôn! Dịch nghĩa Sinh, lão, bệnh, tử Lẽ thường xưa nay vẫn thế. Muốn cầu siêu thoát Nhưng cởi trói cũng chính là buộc chặt thêm Mê muội thì mới cầu Phật. Nhầm lẫn thì mới cầu Thiền. Chẳng cần Thiền, chẳng cần Phật Mím mồm lại, không nói gì. Dịch thơ Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình Sinh, lão, bệnh, tử, Lẽ thường tự nhiên. Muốn cầu siêu thoát, Càng trói buộc thêm. Mê, phải cầu Phật, Hoặc, phải cầu Thiền. Chẳng cầu Thiền, Phật, Mím miệng ngồi im. Qua bài thơ này ta có thể thấy, Ni sư Diệu Nhân cho rằng sinh – diệt là cái lẽ thường niên sống động “tự nhiên nhi nhiên”, có sinh, có diệt, không nên quá chú tâm hay quá lo sợ về điều đó. Đừng cho sinh – lão - bệnh - tử là những nỗi khổ trong một đời người. Thái độ “Mím miệng không nói” trước sự sinh – sự tử thể hiện sự bình thản, không đau đáu vào đấy, nhưng cũng không quay đi. Đó là một triết lý thường nhiên để thích ứng với thiên nhiên. Đồng quan điểm với Ni sư Diệu Nhân, sư Vạn Trì Bát 1049-1118 cũng cho rằng sinh - tử là lẽ tất nhiên của sự vật, không nên ngạc nhiên hay thắc mắc, đừng quan tâm vô ích. Ông nói rõ quan điểm ấy trong lời kệ “Hữu tử tất hữu sinh” trước khi nhập tịch Hữu tử tất hữu sinh Hữu sinh tất hữu tử Tử vi thế sở bi Sinh vi thế sở hỷ Bi hỷ lưỡng vô cùng Hốt nhiên thành bỉ thử Ư chư sinh tử bất quan hoài Úm tô lô tất lý! Dịch nghĩa Có chết tất có sống Có sống tất có chết Chết thế gian khóc Sống thế gian mừng Khóc mừng đều vô cùng Bỗng nhiên phân kia khác Sống chết chẳng quan hoài Um tô lô tất lại ! ! ! Thiền sư Bảo Giác ? – 1173 khi truyền tâm ấn cho Thiền sư Tĩnh Giới có cùng quan điểm với sư Vạn Trì Bát, cũng cho vấn đề sinh - tử là lẽ tất nhiên của sự vật, người ta quan tâm đến vô ích “Sinh, lão, bệnh, tử là cái lẽ thường nhiên ở đời, riêng ta làm sao mà thoát khỏi được”. Ông để lại bài kệ “Qui tịch” Trở về cõi tịch mịch. Dịch nghĩa Muôn vàn hiện tượng trở về với cái không, không nơi nương tựa Trở về cõi tịch mịch thì chân như là cơ trước mắt Cái tâm đạt ngộ đã viên mãn không thể chỉ ra được Quan niệm cái tâm như ánh trăng ở trong nước chính là phương pháp để gạt bỏ cái tâm. Dịch thơ Đỗ Văn Hỷ Muôn pháp về không, không tựa nương, Chân như trước mắt, một con đường Cái tâm liễu ngộ khôn nơi chỉ Như bóng trăng nằm đáy đại dương. Qua tác phẩm này, nhất là hai câu cuối, ta thấy nhà thơ đã giác ngộ cái lẽ thường niên qua thiên nhiên như “Thủy nguyệt, nguyệt tâm” / “Trăng nước, trăng tâm” đến thực tại sống động “tự nhiên nhi nhiên” như Ni sư Diệu Nhân đã nói đến ở trên. Nước là nước là có thật, còn “tâm” chỉ là bóng trăng dưới nước “tâm” là không có. Thái độ đó cho thấy Thiền sư Bảo Giác đã đạt tới một cảnh giới viên mãn của “tâm”, như trăng chìm vào nước, đáy nước tìm trăng, không tìm thấy cái ý nghĩa hợp lý tương đối của tâm nữa. Thiền sư Giới Không ? - ? cho rằng sự vật trên đời đều là hư ảo như ánh sao ở trong mâm nước, không nên cho đó là thật. Điều này được ông thể hiện đọc qua bài thơ “Sinh tử” sống chết trước khi mất “Ngã hữu nhất sự kỳ đặc Phi thanh, hoàng, xích, bạch, hắc Thiên hạ tại gia, xuất gia Thân sinh ố tử vi tặc Bất tri sinh tử dị lộ Sinh tử chỉ thị thất đắc Nhược ngôn sinh tử dị đồ Trám khước Thích Ca, Di Lặc Nhược tri sinh tử, tử sinh Phương hội lão tăng xứ nặc Nhữ đẳng hậu học môn nhân Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc. Dịch nghĩa Ta có một việc rất lạ lung Không phải xanh, vàng, đỏ, trắng, đen Trong thiên hạ kẻ tại gia cũng như xuất gia Ham sống sợ chết ấy là giặc Không biết rằng sống chết tuy là hai đường khác nhau Nhưng chẳng qua cũng chỉ là sự mất, sự được đó thôi. Nếu nói sống chết là hai đường khác nhau Ấy là lừa dối cả Thích Ca và Di Lặc Nếu biết được sống là chết, mà chết cũng là sống Thì mới lĩnh hội được chỗ sâu kín của ta. Các ngươi, những học trò theo học ta Đừng cho quỹ tắc của bóng sao trong mâm là thật. Dịch thơ Băng Thanh Ta có một việc này rất lạ Chẳng phải xanh, vàng, đen, trắng, đỏ, Thiên hạ tại gia và xuất gia “Tham sinh, ố tử” là giặc đó! Biết đâu sinh tử tuy hai đường, Nhưng cũng chỉ là sự “mất”, “có”. Nếu bảo sinh tử thực khác nhau, Là lừa Di Lặc và Phật tổ. Muốn hiểu ý ta, chỗ kín sâu, Phải rõ tử sinh là sinh tử Đệ tử, các ngươi, người học sau, Chớ nhận lầm bóng sao, quỹ độ. Tạo hóa có sinh có diệt. Sinh – lão – bệnh – tử là cái lẽ tự nhiên sống động ai sinh ra cũng phải trải qua. Ở đời ai ai cũng phải đến lúc chết, không ai có thể thoát được. Đó là nhận thức / quan niệm đúng đắn ta thấy qua những bài thơ của các tác giả là thiền sư đề cập đến trên đây. Nhận thức đúng, đã là tốt lắm rồi. Nhưng vấn đề của thời đại đặt ra là từ nhận thức đúng đắn ấy, phải chỉ ra được / phải làm cho những người đang ở “cõi mê” ấy con đường để giải thoát khỏi cõi u mê / lầm lạc/nhận thức chưa đúng ấy, để tiếp tục sống, để đón nhận một cách bình thản cái chết. Qua những tác phẩm trên, ta mới chỉ thấy các nhà thơ mới chủ yếu nêu lên nhận thức / cách hiểu / quan niệm đúng đắn của mình về sinh – tử, mà chưa đưa ra được cái cách / hướng dẫn người ta chế ngự nỗi lo buồn, sự sợ hãi hay quan tâm, vướng bận quá mức về sinh – lão - bệnh - tử. Như để khắc phục những hạn chế ấy, cũng bàn về vấn đề sinh – tử, song một số thiền sư- nhà thơ Đường luật thời Lý đã đưa ra hướng / cách làm thế nào để giải thoát khỏi cái bể khổ âu lo về sinh – tử một cách rất tích cực. Người đầu tiên đưa ra quan niệm nhân sinh tích cực, lạc quan trước cuộc sống là Thiền sư Vạn Hạnh ? – 1018. Ông cho rằng mọi vật, mọi việc trên đời luôn luôn biến động, vô thường. Con người cũng không thoát khỏi lẽ vô thường ấy được. Đời người ngắn ngủi, là “có” mà cũng là “không”; là có sinh tất có tử. Đời người chỉ đáng coi là một ánh chớp rất ngắn ngủi, trong đó sự thịnh hay sự suy cũng mong manh và nhỏ nhoi như giọt sương bám ở đầu ngọn cỏ kia. Nhưng có nhiều người do không hiểu cái lẽ “tự nhiên nhi nhiên”, là sự tất yếu của pháp tướng ấy đã muốn có sự vĩnh hằng, ổn định cho nên mới đau khổ, sợ hãi. Để tránh đau khổ, để vượt qua nỗi sợ hãi ấy, Thiền sư Vạn Hạnh cho rằng con người ta phải “nhậm vận” - mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy”. Tư tưởng triết học ấy của Vạn Hạnh thể hiện trong bài “Thị đệ tử” Bảo với đồ đệ Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Dịch nghĩa Người đời như bóng chớp, có rồi không, Như cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo. Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi, Vì sự thịnh suy cũng mong manh như giọt sương đầu ngọn cỏ. Dịch thơ của Ngô Tất Tố Thân như bóng chớp Có rồi Không, Cây cối xuân tươi, thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”. Không chỉ cùng quan niệm nhân sinh tích cực, lạc quan trước cuộc sống của Thiền sư Vạn Hạnh, gần 100 năm sau, Thiền sư Nguyễn Quảng Nghiêm 1122-1191 mạnh mẽ hơn, thúc giục những đấng nam nhi “Nam nhi tự mình có cái chí tung trời / Đừng đi theo bước của Như Lai”. Điều này thể hiện trong bài kệ “Hưu hướng Như Lai” Đừng theo bước Như Lai để lại lúc sắp thị tịch Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh Nam nhi tự hữu sung thiên chí Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. Dịch nghĩa Thoát ly được lòng ham muốn đi vào Niết bàn mới có thể bàn tới chuyện đi vào Niết bàn, Sau khi sinh vào cõi vô sinh mới nên nói vô sinh. Nam nhi tự mình có cái chí tung trời, Đừng đi theo bước của Như Lai. Dịch thơ Nguyễn Đức Vân – Đào Phương Bình Thoát tịch diệt xong, hãy bàn tịch diệt Sau vô sinh, rồi hãy nói vô sinh Làm trai lập chí xông trở thẳm Theo gót Như Lai luống nhọc mình. Ngay từ tiêu đề bài thơ, nhà thơ đã khuyên đệ tử “Đừng theo bước Như Lai”, và kêu gọi “Làm trai lập chí xông trời thẳm”. Có được Nhận thức ấy, chứng tỏ, tác giả đã thấu triệt vấn đề sống – chết Liễu sinh tử. Ông hoàn toàn liễu ngộ, không còn phân biệt sống - chết như hai danh từ trừu tượng “có – không” nữa. Đừng quan tâm, đừng nói quá nhiều về sống – chết. Không như quan điểm của một số người muốn kéo dài mãi mãi sự sống của mình / bất tử để hưởng thụ; không như có người công phu tìm kiếm tiên dược để cầu trường sinh bất tử với thế gian này; cũng không run sợ trước cái chết, Thiền sư Quảng Nghiêm thúc giục người ta hãy phấn đấu, nỗ lực để biến đổi con người hiện lại thành con người khác “Làm trai lập chí xông trời thẳm”. Và như thế phải bắt đầu phấn đấu từ cái vị trí cảnh ngộ hiện tại trở đi, nhẫn nại, can đảm, âm thầm, chớ nên mơ màng hướng theo chỗ Như Lai đi mà đi. Đó là lối sống tích cực, tinh thần Nhập thế mà nhà sư muốn truyền lại cho thời đại ông và hậu thế. Mấy lời kết 1. Văn học ở thời đại nào cũng là một bộ phận trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của thời đại ấy. Đó là công việc không bao giờ là dễ dàng. Văn học thời Lý nói chung, mảng thơ Đường luật của các thiền sư đời Lý nói riêng, cũng nằm trong quy luật ấy. Và, không quá khi khẳng định những thiền sư - tác giả thơ Đường luật đời Lý - tầng lớp có học thức, có uy tín và ảnh hưởng trong xã hội, còn giữ vai trò là những người mở đường/ đặt nền móng xây nên truyền thống đó của văn học Việt Nam. Nhiều thế hệ thiền sư – nhà thơ Đường luật đời Lý đã đóng góp vào công việc trọng đại đó với tất cả khả năng, suy nghĩ và sáng tạo nghệ thuật trong những sáng tác đầy trách nhiệm với Đạo, với Đời của mình. Trong một xã hội mà “nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa” thì việc làm trên của các thiền sư không chỉ nhằm hoằng dương Phật pháp, tiếp độ chúng sinh, mà còn đưa chúng sinh vào con đường nhập thế, dấn thân vào các hoạt động xã hội, tham gia triều chính, yểm trợ chính quyền. Qua những vị thiền sư – nhà thơ Đường luật nói trên, chắc chắn là chưa thể nói hết được, nhưng cũng có thể khẳng định Phật giáo thời Lý không coi mình bên ngoài chính sự, không lợi dụng sự tôn kính của các bậc quân vương đối với tôn giáo mình để bài xích, loại trừ các tôn giáo khác. Phật giáo cũng không dùng cách thức hành xử cực đoan đề độc tôn, đề cao mình, mà trái lại, bằng trí tuệ uyên thâm, sâu sắc, bằng tinh thần từ bi, hỷ xả, Phật giáo luôn dung hòa các mối quan hệ, luôn đề cao và phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó và coi đó là tiêu chí cho sự phát triển ổn định, bền vững và lâu dài. 2. Thơ ca thời Lý nói chung, thơ Đường luật thời Lý nói riêng không phải là một cái gì đứng im, bất biến. Trái lại, đó là một thực thể luôn luôn phát triển, gắn liền với quá trình phát triển về mặt nhận thức của dân tộc Việt Nam. Từ dòng thơ sấm vỹ với hình thức nhận thức sơ khai pha màu sắc tín ngưỡng dân gian xuất hiện ở cuối thời Lê Sơ đầu thời nhà Lý, theo thời gian và yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển một nhà nước độc lập, của công cuộc phát triển văn hóa tinh thần của nhân dân đã trưởng thành và sự nghiệp giáo dục ngày một mở mang, hình thức nhận thức có vẻ “tiên nghiệm” của thơ sấm vĩ trên không đủ nữa. Những “đơn đặt hàng” của xã hội về cung cấp kiến thức hiểu biết sâu hơn về vũ trụ, về nhân sinh đã được các nhà văn, nhà thơ, trong đó đông đảo nhất là các nhà thơ – Thiền sư đã giải quyết thỏa mãn được. Thơ suy lý, thơ trữ tình, thơ tự sự lần lượt ra đời để đáp ứng nhu cầu trên. Tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời Lý, tấm gương sống tốt đời, đẹp đạo của các nhà sư thời Lý đã thúc đẩy xã hội hành động cho những giá trị tư tưởng nhân sinh quan tích cực, lạc quan, yêu đời khiến cho văn học thời Lý đạt tới Chân, Thiện, Mỹ. 3. Dòng văn học thời Lý nói chung, cụ thể là thơ Đường luật, tuy mang hình thức ngôn ngữ dùng chữ Hán và mọi quy cách, luật lệ của nước ngoài thể thơ Đường bên Trung Quốc, nhưng nội dung dân tộc vẫn rất sâu sắc, bám sát và giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra cho cả thời đại nhà Lý xây dựng nền độc lập dân tộc, xây dựng Nhà nước hoàn chỉnh, ổn định lâu dài, chống xâm lăng. 4. Những nhà sư – thi sĩ Đường luật đời Lý đã xây dựng được trong văn học thời Lý một dòng văn học chuyên dùng thi ca để diễn đạt các phạm trù “sắc, không”, “sinh, lão, bệnh, tử”, từ bi, hỷ xả,… những triết lý Phật giáo cao siêu, mầu nhiệm đến gần hơn với chúng sinh. 5. Sự xuất hiện của nhà thơ nữ đầu tiên của văn học Việt Nam là một Ni sư cho thấy đạo Phật không trọng nam, khinh nữ như đạo Nho. Chỉ qua sáng tác còn lại có 1 bài, nhưng đã chứng tỏ các nhà sư, ni cô thông thái của đạo Phật thời Lý suy nghĩ hết sức độc đáo, ý thơ tuyệt vời về mặt triết lý. 6. Sở dĩ thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý đạt được những thành tựu to lớn đó là bởi vua đầu triều Lý là Lý Công Uẩn đã được giới sư sãi đứng đầu là Thiền sư Vạn Hạnh ủng hộ, và đã làm mọi cách để đưa lên ngai vàng thành công. Chính vì vậy, Phật giáo nói chung, đặc biệt là đội ngũ Thiền sư được Nhà Lý ủng hộ, xây dựng và phát triển. Dưới thời Lý, chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo chỉ mới bắt đầu, số Nho sĩ được đào tạo ra chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu về đội ngũ quan lại trong bộ máy quản lý của một nhà nước quân chủ ngày một mở rộng ra nhiều lĩnh vực. Trong khi đó, Phật giáo vô cùng phát triển, truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân, và có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội. Trong nhân dân, số sư sãi và tín đồ Phật giáo chiếm một tỷ lệ khá đông. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu đời Trần thì vào đời Lý “nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa” Đại Việt sử ký toàn thư , Nxb KHXH, H, 1967, T1, tr 192. Nhà vua và các tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo Phật, nhiều người bỏ tiền ra dựng chùa, cúng ruộng cho nhà chùa. Một số nhà vua đã từng đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông. Vua Lý Thánh Tông sáng lập ra một phái Thiền tông mới ở Việt Nam phái Thảo Đường. Phần lớn nhà sư là tầng lớp có học thức hơn hết, là những trí thức lớn trong xã hội lúc đó, đóng vai trò quan trọng, in dấu ấn trong mọi lĩnh vực, từ việc xây dựng kiến trúc thượng tầng đến tổ chức xã hội và đời sống văn hóa-tinh thần trong xã hội, được các vua nhà Lý rất trọng vọng. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều, như Thiền sư Vạn Hạnh được phong là Quốc sư, các nhà sư Đa Bảo, Viên Thông được tham dự bàn bạc và quyết định các việc trong triều như những Cố vấn cao cấp của nhà vua. Có thể khẳng định, sự ổn định, vững bền của vương triều Lý, cũng như những thành tựu văn hóa – văn học thời Lý có dấu ấn và sự đóng góp tích cực của Phật giáo, mà cụ thể ở đây là những nhân tài Phật giáo – các vị thiền sư – trí thức lớn đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử văn học Việt Nam nói riêng như một mốc son chói lọi. Những công lao, đóng góp to lớn trên đây của những thiền sư- nhà thơ Đường luật thời Lý đã được xã hội ghi nhận, được các chính trị gia, từ vua chí quan triều Lý hết lời ca tụng. Tác phẩm văn học của họ chắc chắn sẽ còn sống mãi với thời gian. * Bài viết sử dụng tư liệu trong sách “Thơ văn Lý – Trần”, Tập 1, Ủy ban KHXH Việt Nam – Viện Văn học – Nxb KHXH, H, 1977, sẽ tham luận tại Hội thảo “Thơ Đường luật Việt Nam thời Lý” do Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc – Hội Thơ Đường luật Việt Nam tổ chức tại Từ Sơn - Bắc Ninh vào ngày 04-10-2019. TS Nguyễn Minh San
Thơ văn Lý - Trần Tác giả Đào Phương Bình, Phạm Đức Duật, Trần Nghĩa Ký hiệu tác giả DA-B DDC 08 - Tuyển tập văn học Việt Nam Ngôn ngữ Việt Tập - số T3 Số cuốn 1 Hiện trạng các bản sách Mã số 617BC0005033 Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Năm xuất bản 1978 Khổ sách 27 Số trang 822 Kho sách Kho B Ban Thần Tình trạng Hiện có Lời dẫn 7 Bảng viết tắt một số tác phẩm và ký hiệu dùng trong sách 11 PHẦN THƠ VĂN NGUYỄN TỬ THÀNH 1. Tư đồ cố cư Nơi ở cũ của quan Tư đồ 15 2. Thu nhật ngẫu thành Ngày thu ngẫu hứng 16 3. Tiếu đỗ vũ Trách chim quốc 17 4. U cư Chỗ ở thanh u 5. Cố viên Vườn xưa 19 6. Xuân nhật khê thượng vãn hành Chiều xuân dạo chơi bên bờ suối 7. Tích xuân Tiếc xuân 20 8. Xuân giao vãn hành Chiều xuân dạo chơi vùng ngoại ô 9. Chu trung vãn thiếu Trong thuyền ngắm cảnh chiều hôm 22 10. Giản Kinh Khê Phạm Tông Mại Gửi Kính Khê Phạm Tông Mại 23 11. Sơ xuân Đầu xuân 24 NGUYỄN ỨC 12. Đồ mi Hoa đồ mi 26 13. Điếu đài Chòi câu 27 14. Bạc chu Ứng Phong đình ngẫu đề Đậu thuyền bên đình Ứng Phong ngẫu hứng đề thơ 28 15. Động Nhiên phonq hữu cảm Cảm xúc khi qua đỉnh Động Nhiên 29 16. Trùng dương tiền nhất nhật đảo Cúc Đường cựu cư hữu cảm Cảm xúc khi đến ngôi nhà cũ của Cúc Đường vào ngày trước tết Trùng dương 30 17. Trai tiền bồn tử lan hoa Chậu hoa lan trước nhà 31 18. Tống nhân bắc hành Tiễn người đi phương Bắc 32 19. Đề "cố bộ hạc đồ" Đề tranh cố bộ hạc đồ» 33 20. Đại tạ ngự tử mặc họa long Thay người tạ ơn vua ban cho bức tranh rồng thủy mặc 34 21. Tống Cúc Đường chủ nhân chinh Thích-Na Tiễn Cúc Đường chủ nhân đi đánh giặc Thích Na 36 22. Thu dạ dữ cố nhân Chu Hà thoại cựu Đêm thu cùng bạn cũ Chu Hà kể lại chuyện đã qua 38 23. Chu quá Bắc Giang 'Tiên Du tác Thơ làm khi thuyền qua Tiên Du Bắc Giang 39 24. Thư hoài phụng trình Cúc Đường chủ nhân Ghi nỗi lòng, vâng trình Cúc Đường chủ nhân 40 25. Vãn Tư đồ công Viếng quan Tư đồ 41 26. Nguyên nhật yết Diên Quang tự Nguyệt Đàm thượng nhân Mồng một tết yết kiến thượng nhân Nguyệt Đàm ở chùa Diên Quang 43 27. Tống thị thần Mạc Dĩnh Phu sử Nguyên, Tiễn thị thần Mạc Dĩnh Phu đi sứ nhà Nguyên 45 28. Xuân nhật thôn cư Ngày xuân ở nông thôn 46 29. Khách xá họa hữunhân vận Nơi quán khách họa thơ bạn 47 30. Lạc mai Hoa mai rụng 48 31. Biên tập Cúc Đường di cảo cảm tác Cảm tường khi biên tập cuốn di cảo của Cúc Đường 50 CHU VĂN AN 32. Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kinh Đêm trăng dạo bước trên đường thông ở núi Tiên Du 53 33. Đề Dương Công Thủy Hoa dinh Đề đình Thủy Hoa của Dương Công 54 34. Linh Sơn tạp hứng Tạp hứng Ở Linh Sơn 56 35. Thôn Nam sơn tiểu khệ Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam 57 36. Cung họa ngự chế động chương Kinh họa thư vua 58 37. Thanh Lương giang Sông Thanh Lương 59 38. Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân Họa vần tặng Thủy Vân đạo nhân 60 39. Xuân đán Sáng mùa xuân 61 40. Miết Trì Miết Trì 62 41. Giang Đình tác Làm thơ ở Giang Đinh 63 42. Sơ hạ Đầu mùa hè 65 43. Vọng Thái lăng Trông về Thái lăng 66 HỒ TÔNG THỐC 44. Du Đông Đình hoa Nhị Khê nguyên vận Qua chơi Đông Đình, họa nguyên vần thơ của Nhị Khê 68 45. Đề Hạng Vương từ Đề đền Hạng Vương 69 46. Từ Ân tự bi minh tịnh tự Bài minh và tự ở bia chùa Từ Ân 72 47. Việt Nam thế chí tự Bài tựa sách Việt Nam thế chí » 76 PHẠM SƯ MẠNH 48. Hành dịch đăng gia sơn Nhân đi việc quan, lên chơi núi quê nhà 79 49. Đông Sơn tự hồ thượng lâu Lầu trên hò chùa Đông Sơn 81 50. Quá Hoàng Long động Qua động Hoàng Long 82 51. Qúa Tiêu Tương Qua Tiêu Tương 83 52. Đề Cam Lộ tự Đề chùa Cam Lộ 84 53. Chu trung tức sự Thơ tức sự trên thuyên 85 54. Quá An phủ Nguyễn Sĩ Cố phần Qua mộ An phủ Nguyễn Sĩ cố 86 55. Đăng Dục Thúy sơn lưu đề Lên núi Dục Thúv đề thơ 87 56 - 57. Hỗ giá Thiên Trường thư sự Ghi lại việc hầu vua về Thiên Trường 88 58. Xuân nhật ứng chế Ngày xuân họa thơ vua 91 59. Du Phật Tích sơn ngẫu đề Đi chơi núi Phật Tích ngẫu nhiên đề thơ 93 60. Tiễn Vũ Văn Đồng nhất dụ Chiêm Thành quốc Tiễn Vũ Văn Đồng đi dụ Chiêm Thành 94 61. Ô Giang Hạng Vũ miếu Miếu Hạng Vũ ở Ô Giang 96 62. Án Thao Giang lộ Đi kinh lý lộ Thao Giang 98 63. Hành quận Đi kinh lý trong quận 99 64. Tuần thị Chân Đăng châu Tuần tra châu Chân Đăng 101 65. Đề Gia Cát thạch Đề đá Gia Cát 102 66 - 67. Đăng Thiên kỳ sơn lưu đề Lên núi Thiên kỳ đề thơ lưu niệm 103 68. Đề Hiệp Sơn Bão Phúc Nham Đề động Bão Phúc ở huyện Hiệp Sơn 106 69. Quan bắc Phía bắc cửa ải 107 70. Đề Đông triều hoa nham Đề thơ núi Hoa Nham, Đông Triều 108 71. Lạng Sơn đạo trung Trên đường Lạng Sơn 109 72. Tam Thanh động Động Tam Thanh 110 73. Thượng Ngao Thượng Ngao 112 74. Quang Lang đạo trung Trên đường đi Quang Lang 113 75. Chi Lăng động Động Chi Lăng 114 76. Đề Báo Thiên thápĐề tháp Báo Thiên 115 77 - 80. Họa Đại Minh sư Dư Quý Họa thơ Dư Quý sứ thân Minh 117 81- 83. Họa đại Minh sứ Đề Nhị Hà dịch Họa thơ "Bề trạm Nhị Hà" của sứ thần Minh 121 84 . 85. Tái họa Đại Minh Quốc sứ Dư Quý Lại họa thơ sứ thần Minh Dư Quý 123 86. Tống Đại Minh Quốc sử Dư Quý Tiễn sứ thần Minh Dư Quý 125 87 - 88. Sơn hành Đi trên núi 126 89. Đăng Hoàng Lâu tẩu bút thị Bắc sứ Thị giảng Dư Gia Tân Lên Hoàng Lâu viết vội vần thơ đưa sứ Bắc Thị giảng Dư Gia Tàn 128 90. Sùng Nghiêm sự Văn Lõi sơn Đại Bi tự Chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi thờ tượng Đại Bi 131 BỒNG NGẠN HOẰNG 91. Họa Phạm Hiệp Thạch vận Họa vần thơ Phạm Hiệp Thạch 135 LÊ QUÁT 92. Tống Phạm Công Sư Mạnh bắc sứ Tiễn Phạm Sư Mạnh đi sứ phương bắc 137 93 - 94. Thư hoài Nỗi lòng 138 95. Đồng hồ Con hổ bằng đồng 140 96. Nhạn túc đăng Đèn chân nhạn 141 97. Cưu trượng Gậy cưu 142 98. Đăng cao Lên cao 143 99. Bắc Giang Bái thôn Thiệu Phúc tự bi kỷ Bài văn bia chùa Thiệu Phúc ở thôn Bái tỉnh Bắc Giang 144 NGUYỄN CỐ PHU 100. Bắc sử ứng tỉnh đường mệnh tịch thượng phù thi Đi sứ phương bắc, theo mệnh quan tỉnh, làm thơ ngay giữa tiệc 146 TRẦN NGUYÊN ĐÁN 101. Phụng canh Thái thượng hoàng ngự chế đề Thiên Trường phủ Trùng Quang cung Họa bài thơ của Thái thượng hoàng đề ở cung Trùng Quang 149 102. Cửu nguyệt đối cúc canh ngự chế thi vận Tháng chín ngắm cúc họa bài thơ của nhà vua 150 103. Phụng canh thánh chế Quan Đức điện tử tiến sĩ cập đệ yến » thi vận Họa vần bài thơ Ban yến cho những người đỗ Tiến sĩ ở điện Quan Đức » của nhà vua 151 104. Phụng canh ngự chế Thu hoài » thi vận Họa vần bài thơ Thu hoài » của nhà vua 152 105. Cửu nguyệt tam thập nhật dạ hữu cảm Cảm xúc đêm ba mươi tháng chín 153 106. Chi Linh sơn Phượng Hoàng phong Đỉnh Phượng Hoàng ở núi Chí Linh 155 107. Bảo Nghiêm tháp Tháp Bảo Nghiêm 156 108. Đề Huyền Thiên Tử Cực cung Đề cung Tử Cực ở động Huyền Thiên 157 109. Sơn trung ngẫu thành Trong núi ngẫu nhiên làm thành thơ 158 110. Tiểu vũ Mưa nhỏ 160 111. Cửu nguyệt hữu nhân lai phỏng đồng tác Tháng chín có người đến thăm cùng làm thơ 161 112. Tặng Chu Tiều Ẩn Tặng Chu Tiều Ẩn 163 113. Hạ Tiều Ẩn Chu tiên sinh bái Quốc tử giám Tư Tiều Ẩn được bổ chức Tư nghiệp ở Quốc tử giám 164 114. Canh Đồng Tri phủ hữu ty Mai Phong Lê công vận Họa vần thơ - của ông Đồng Tri phủ hữu ty Lê Mai Phong 165 115. Thu nhật Ngày thu 167 116. Đông Triều thu phiếm Mùa thu thả thuyền ra chơi Ở Đông Triều 168 117. Đề Nguyệt Giản Bạo lục thái cực chi Quan Diệu dường Đề nhà Quan Diệu của Đạo lục thái cực ở Nguyệt Giản 169 118. Lão lai Già đến 170 119. Mai thôn - Bé hình dĩ Thành Nam đối cúc» chi tác kiến thị, nài thứ kỹ vận Quan Bề hình Mai thôn cho xem bài thơ Ngắm Cúc thành Nam», nhân họa theo vần 171 120. Hạ Giới Hiên công trừ nhiếp Hữu bộc xạ Mừng ông Giời Hiên được bố chức Hữu bộc xạ 173 121. Dụng Hồng Châu Đông úy Phạm công vận phụng trình khảo thí chư công Dùng văn thơ của quan Đồng úy Hồng Châu là Phạm công đề đưa trình các ông đang chấm thi 174 122. Tống Long Nham qui Diễn Châu Tiễn Long Nham về Diễn Châu 175 123. Hồng cúc hoa Hoa cúc đỏ 177 124. Chính Túc Vươnq gia yến tịch thượng, phú mai thi, thứ Giới Hiên Bộc xạ vận Trên tiệc rượu ở nhà Chính Túc Vương làm thơ - vịnh mai, họa vần thơ của quan Bộc xạ là Giới Hiên 178 125. Tống Bình Tây Đô đốc Trang Định Đại vương phụng chiểu chinh Chiêm Thành Tiễn Bình Tây Đô đốc Trang Định Bại vương phụng chiếu đánh Chiêm Thành 179 126. Sơn trung khiên hứng Trong núi cảm hứng 181 127. Tặng Mẫn Túc Tặng Mẫn Túc 182 128. Quân trung hữu cảm Cảm xúc khi ở trong quân 184 129. Quân trung tác Làm ở trong quân 185 130. Thanh Hóa phủ đạo trung Trên đường phủ Thanh Hóa 186 131. Đề Phả Lại sơn Đạị minh tự dang Thiếu bảo Trương công vận Dùng Vần thơ của quan Thiếu bảo Trương công đề chùa Đại Minh ở núi Phả Lại 187 132. Búp Lương Giang Nạp ngôn bệnh trung Trả lời quan Nạp ngôn Lương Giang trong khi ốm 189 133. Gia đệ kiến Tiêu Đô dốc thị tảo mai thi, nhằn canh kỳ vận dĩ tặng Người em trai được Tiểu Đô đốc cho xem thơ vịnh mai sớm, nhân họa vần đề tặng 190 134. Ngẫu đề Ngẫu đề 192 135. Canh thí cục chư sinh xương thù giai vận Họa vần bài thơ xuớng họa của các thí sinh ở trường thi 193 136. Dụng Đỗ Tồn Trai vận, trình thí viện chư công Dùng vần thơ - của ông Đỗ Tồn Trai làm thơ gửi các ông trong trường thi 194 137. Đề Quan Lỗ Bạ thi tập hậu Đề sau tập thơ Quan Lỗ Bạ 196 138. Đề Sùng Hư lão lúc Đề chỗ ở cũ của Sùng Hư 197 139. Ký tặng Nhị Khê Kiềm chính Nguyễn ứng Long Gửi tặng Kiềm chính Nguyễn ứng Long ở Nhị Khê 198 140. Phụnq tiễn Xu phủ Tây chinh hành quân Đô tổng quản Lê công Tiễn Xu phủ Tây chinh hành quân Đô tổng quản Lê công 200 141. Họa Hồng Châu Kữm chinh vận Họa bài thơ của viên Kiềm chinh ở Hồng Châu 201 142. Phụng canh Thái Tông Chính Bình chương vận Kính họa vần bài thơ năm Chính Bình của Thái Tông 203 143. Canh Tán Bình An phả Phạm công Sư Mạnh Tán Bình thư sự» vận Họa vần bài thơ - Tân Bình thư sự» của quan An phủ sứ trấn Tân Bình Phạm Sư Mạnh 204 144. Tứ Tiến sĩ Tặng Tiến sĩ 205 145. Đề Huyền Thiên quán Đề quán Huyền Thiên 207 146. Phụng canh ngự chế Hoàng mai tức sự» Kính họa vấn thơ Hoàng mai tức sự» của nhà vua 208 147. Nhâm dần niên lục nguyệt tác Thơ làm vào tháng Sáu năm Nhâm dần 1362 208 148. Mậu Thân chinh nguyệt tác Thơ làm vào tháng Giêng năm Mậu thân 1368 209 149. Dạ qui chu trung tác Thơ làm trong lúc đêm đi thuyền về 210 150. Dạ thâm ngẫu tác Thơ làm lúc đêm khuya 211 151. Bất mị Không ngủ ĐỒ TỬ VI 152. Quá Việt Tỉnh cương Qua đồi Việt Tỉnh 213 153. Hạ Hồ Thành trúng Trạng nguyên Mừng Hồ Thành đỗ Trạng nguyên 214 TRẦN PHỦ Trần Nghệ Tông 154. Tống Bắc sứ Ngưu Lượng Tiễn sứ phương bắc Ngưu Lượng 217 155. Vọng Đông Sơn Liễu Nhiên am Trông am Liễu Nhiên ở Đông Sơn 218 156. Hạnh Gia Hưnq trấn ký đệ Cung Tuyên Vương Đến trấn Gia Hưng gửi cho em là Cung Tuyên Vương 219 157. Đề Tư đồ Trần Nguyên Đán từ đường Đề nhà thờ quan Tư đồ Trần Nguyên Đán 220 158. Đề Siêu Loại Báo Ân tự Bề chùa Bảo Ân ở Siêu Loại 221 159. Côn Sơn Thanh Hư động bi minh Bài minh khắc vào bia động Thanh Hư ở Côn Sơn 225 ĐÀO SƯ TÍCH 160. Cảnh Tinh phú Phú sao Cảnh Tinh 227 TRẦN ĐÌNH THÂM 161. Đề thu giang tống biệt đồ Đề bức tranh tiễn biệt trên sông mùa thu 232 162. Văn Vương Thiếu bảo Nhữ Chu Viếng quan Thiếu bảo Vương Nhữ Chu 233 TRẦN CÔNG CẨN 163. Xuân nhật du Sơn tự Ngày xuân chơi chùa trên núi 235 164. Bàn Khê điếu huỳnh phú Bài phú câu ngọc huỳnh ờ Bàn Khê 237 TRẦN HẠO Trần Dụ Tông 165. Đường Thái Tông dữ bản triều Thái Tông Vua Thái Tông nhà Đường với vua Thái Tông triều ta 241 HỒ QÚY LY 166. Kỷ Nguyên quân Gửi Nguyên quân 244 167. Đáp Bắc nhàn vấn An Nam phong tục Trả lời người phương bắc hỏi về phong tục nước An Nam 245 168. Tứ Trung úy Đỗ Tử Trừng Ban cho Trung úy Đỗ Tử Trừng 247 169. Tứ Thùng Hoa lộ Tuyên phủ sứ Nguyễn Ngạn Quang Ban cho Nguyễn Ngạn Quang, Tuyên phủ sứ lộ Thăng Hoa 248 170. Cảm hoài Cảm hoài 249 VIỆT SỬ LƯỢC 171. Tiền Ngô Vương Tiền Ngô Vương 253 172. Tiên vương Tiên vương 255 173. Bại Hành Vương Đại Hành Vương 261 174. Cao Tông Cao Tông 272 TẠ THÚC NGAO 175. Sùng Khánh tự bi minh tịnh tự Bài minh và bài tựa về chùa Sùng Khánh 287 TRẦN THIÊN TRẠCH 176. Đề Phạm Điện soái gia trang Đề trang trại của Điện soái Phạm 292 LƯU THƯỜNG 177. Tuyệt mệnh thi Thơ tuyệt mệnh 294 TRẦN NGẠC 178. Tặng Tư đồ Nquyên Đán Tặng Tư đồ Nguyên Đán 296 PHẠM NHÂN KHANH 179. Hỗ bài Sơn Lăng hồi kinh Hầu vua đi bái yết Sơn Lăng về kinh 298 180. Phụng Bắc sử cung ngộ Hy Lăng Đại tườnq nhật hữu cảm Phụng mệnh đi sứ phương bắc cảm xúc nhân gặp ngày Đại tường của Hy Lăng 300 181. Thủ tuế Giữ năm 301 182. Xuân du Chơi xuân 302 183. Thu dạ Đêm thu 304 184. Thất tịch Đêm thất tịch 305 185. Thất tịch Đêm thất tịch 307 186. Nhạn tự Chữ nhạn 308 187. Tân trúc Trúc non 309 188. Phật Tích Liên trì Ao sen chùa Phật Tích 311 189. Tặng Bát Than tỳ tướng Tặng Tỳ tướng Bát Than 312 190. Tặng Nam Đường công Trần Kinh lược Tặng quan Kinh lược họ Trần ở Nam Đường 313 191. Tống Lãm Sơn Quốc sư hoàn sơn Tiễn Quổc sư Lãm Sơn về núi 315 NGUYỄN NHỮ BẬT 192. Quan Chu nhạc phú phủ Xem nhạc nhà Chu 317 NGUYỄN PHÁP 193. Cần Chính lâu phú Phú Lầu Cần Chính 323 KHUYẾT DANH 194. Thang bàn phú Phú Cải chậu của vua Thang 329 KHUYẾT DANH 195. Đồng Hồ bút phú Phủ về ngọn bút của Đồng Hồ 334 SỬ HY NHAN 196. Trảm xả kiếm phú Phú Kiếm chém rắn 341 CHU ĐƯỜNG ANH 197. Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ Đề bức tranh Đường Minh Hoàng tắm ngựa 345 198. Đề quần ngư triều lý đồ Đề bức tranh bầy cá chầu cá chép 347 NGUYỄN QUÍ ỬNG 199. Đề Ngô Khê Đề cảnh Ngô Khê 350 200. Hoành Châu thứ Vương Bồng Trai vận Qua Hoành Châu họa vần thơ của Vương Đồng Trai 352 VŨ THẾ TRUNG 201-204. Lan cốc Lan trong núi 354 TRẦN QUAN 205. Quan xá Để nơi Quan xá 357 CHU KHẮC NHƯỢNG 206. Đề Sài Trang vĩnh Hưng tự Đề chùa Vĩnh Hưng ở Sài Trang 359 DOÃN ÂN PHỦ 207. Phụng sứ lưu biệt thân đệ Phụng mệnh đi sứ từ biệt em trai 361 LÊ LIÊM 208. Vũ Lâm động Động Vũ Lâm 363 TẠ THIÊN HUÂN 209. Qúa Phù Đổng độ Qua bến đò Phù Đổng 365 210. Tức sự Tức sự 366 211-222. Lan Lan 367 TRẦN LÔI 223. Quá Phong Khê Qua đất Phong Khê 373 ĐOÀN XUÂN LÔI 224. Diệp mã nhi phú Phú Con ngựa lá 376 NGUYỄN PHI KHANH 380 225. Tị khấn sơn trung Vào núi lánh giặc 381 226. Quan vi kỳ Xem đánh cờ vây 383 227. Dù Chương Giang đồng niên Trương Thải học Gửi bạn đồng niên là Thái học sinh họ Trườrng ở Chương Giang 384 228. Bồ Băng Hồ Tưởng công du Xuân Giang Theo Tướng công Băng Hồ đi chơi sông Xuân Giang 386 229. Hạ Kinh Triệu doãn Nguyễn công vi Vân Đồn kinh lược sử Mừng quan Triệu doãn kinh đô Nguyễn Công đi làm Kinh lược sử ở Vân Đồn 387 230. Trùng du Xuân Giang hữu cảm Cảm xúc khi đi chơi sông Xuân Giang lan thứ hai 389 231. Tha thành văn vọng Chiều thu đứng trông ở trên thành 390 232. Giáp hạ hạn, hữu sắc chứ lộ đảo vũ, vị đảo nhi tiên vũ Mùa hạ năm Giáp tý 1384 hạn hán vua có sắc cho các lộ cầu mưa, chưa cầu trời đã mưa 393 233. Thôn gia thú Thú quê nhà 393 234. Du Phật Tích sơn dối giang lì gẫu tác Chơi núi Phật Tích, đối diện với giòng sông, ngẫu nhiên làm thơ 394 235. Tha nhật khiển hứng Khiển hứng ngày thu 395 236. Ngẫu lác ngẫu nhiên làm thơ 396 237. Gia viện lạc Thú quê nhà 398 238. Thướng Hồ Thừa chỉ Tông Thốc Dâng lên quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc 399 239. Xuân hàn Rét mùa xuân 401 240-241. Tẩu dĩ đa sự, vị tức bối Côn Sơn du, cảm niệm chi thâm, nhân thành bút cú luật nhị thủ, nhất dĩ tụng miếu đường chi họ nhi hữu nhàn thich chi thú; nhất dĩ tả hung hoài chi tố nhi bá ca vịnh chi thanh; nhân lục trình Thanh Hư Động chủ Tôi vì bận việc, chưa kịp theo đi thăm núi Côn Sơn, vẫn nâng lòng cảm nhớ, viết thành hai bài thơ Bát cú luật Đường; một là đề tụng đọc khi việc miếu đường rảnh rỗi mà được cái vui nhàn tản; một là đế tả cái sản có trong lòng phát lộ ra âm thanh ca vịnh xin chép lại đệ trinh Chủ nhân động Thanh Hư 402 242. Tống Trung sứ vũ Thích Chi Tiễn Trung sứ Vũ Thích Chi 405 243. Thành trung hữu cảm kỳ trình đồng chí Gửi trình các bạn đồng chí những cảm khái khi ở trong thành 407 244. Hạ Trung thư Thị lang Mừng quan Thị lang tòa Trung thư 408 245. Hạ Tống, Lê, Đỗ tam Ngự sử Mừng ba quan Ngự sư họ Tống, họ Lê, họ Đỗ 409 246. Phụng chiếu Trường An đạo trung tác Thơ làm trong lúc phụng chiếu vua đi Trường An 411 247. Thiên Trườnq thi hậu hữu cảm Cảm xúc sau khi thi ở Thiên Trường 412 248. Thôn cư Ở xóm 414 249. Thu dạ tảo khởi kỷ Hồng Châu Kiểm chính Đêm thu dậy sớm gửi Kiềm chinh Hồng Châu 415 250. Thu trung bệnh ốm vào mùa thu 417 251. Khách xả Quán khách 418 252. Tống Kinh sư doãn Nguyễn công vi Hành doanh Chiêu thảo sứ Tiễn quan Kinh sư doãn họ Nguyễn đi nhậm chức Hành doanh Chiêu thảo sứ 420 253. Dụng Trịnh sinh lưu biệt vận dĩ biệt chi Dùng vần thơ lưu biệt của Trịnh sinh đề từ biệt 421 254. Du Côn Sơn Chơi Côn Sơn 423 255. Tự Thiên Trường phủ phiêu quá hải khẩu ngộ phong Từ phủ Thiên Trường lênh đênh ra cửa biền gặp gió 424 256. Cửu nguyệt Băng Hồ Tướng công tịch thượng Tháng chín, trong bữa tiệc của Tưỏng công Băng Hồ 425 257. Tống Hành nhân -Đỗ Tòng Chu Tiễn quan Hành nhân Đỗ Tòng Chu 427 258. Hỉ Học sĩ Trần Nhược Hư từ Nghệ An chí Mừng Học sĩ Trần Nhược Hư từ Nghệ An đến 428 259. Tốnq Thải Trung Bại phu Lê Dung Trai Bắc hành Tiễn quan Thái trung Đại phu Lê Dung Trai đi sứ phương bắc 430 260. Phụng canh Băng Hồ Tướng công kỳ tặng Đỗ Trung Cao vận Phụng họa bài thơ của Tướng công Băng Hò gửi tặng Đỗ Trung Cao 431 261. Tạ Băng Hồ Tưởng công tứ mã Tạ ơn Tướng công Băng Hò cho ngựa 433 262. Họa Chu Hàn lăm vị ương tảo triều Họa bài thơ vào chầu vua lúc trời chưa sáng của quan Hàn lâm họ Chu 434 263. Thôn cư cảm sự kỷ trình Băng Hồ Tướng công Ở quê xúc động trước sự việc xảy ra gửi trình Tướng công Băng Hồ 436 264. Khách lộ Đưòng khách 437 265. Xương Phù nguyên niên đông, dư tự Nhị Khê ngụ vu thành nam khách xá, cảm kim niệm tích, nhản thành bát cú, phụng giản Tư hình Đại phu Đỗ công, kiềm giản chir đồng chí Mùa đông năm Xương Phù thứ nhắt,tôi từ Nhị Khê đến ngụ tại nhà khách ở phía nam thành, cảm nay nhớ- xưa, nhân làm tám câu thơ gửi quan Tư hinh Đại phu Đỗ công và nhữngbạn đồng chí 438 266. Cửu nguyệt thốn cư độc chước Tháng chín ở xóm quê nhà uống rượu một mình 440 267. Thu nhật hiều khởi hữu Ngày thu sáng dậy cảm xúc nên thơ 441 268. Bạc Nguyễn gia lăng cấm thuyền tại lăng nhà Nguyễn 443 269. Tam nguyệt sơ nhất nhật hầu khởi Ngày mồng một tháng ba, sáng đậy 444 270. Trừ dạ dụng Đỗ lão vận, chư quán tịch thượng dốnq tác Đêm ba mươi tết, dùng vần thư của Đỗ Phủ cùng các ban trong tiệc làm thơ 446 271. Tuyên chiếu bãi, biệt Vận phó Nguyễn Viêm Tuyên chiếu xong, từ biệt quan Vận phó Nguyễn Viêm. 447 272- 273. Hồng Châu kiểm chính dĩ dư vận tác thuật hoài thi, kiên phúc, dụng kỷ vận dĩ tặng. Kiềm chính Hồng Châu dùng vần của tôi đề làm bài tha thuật hoài, sau khi đọc, tôi lại dùng vằn ấy làm thơ tặng anh 449 274. Hông Cháu phúc liền vận, phục ký đáp chi Hồng Châu phúc đáp vần bài trưóc, tôi lại gửi trả lời 451 275. Giang hành thứ Hồng Châu Kiểm chính vận Đi trên sông, họa vần thơ của Kiểm chính Hồng Châu 453 276. Trung thu cảm sự Nhân tiết Trung thu, cảm xúc trước sự việc 454 277. Nguyên nhật, thướng Băng Hồ Tướng công Ngày Nguyên đán, dâng lên Tướng công Băng Hồ 456 278. Sơn thôn cảm hứng Câm bứng ở xóm núi 457 279. Cổ Sơn Phạm công thi dĩ Tiều phố» thi, thả đạo chư công tận dĩ canh họ; dư nhân mộ kỳ trần trung nhi hữu nhàn thích chi thú, y vận phú nhất luật Ông Phạm Gỗ Sơn đưa bài thơ vịnh Vườn nhỏ», lại nói các vị đều họa cả rồi; tôi nhân hâm mộ ỡ trong cõi trần này mà có cái thú nhàn tản như thế, nhân theo vần họa lai một bài 458 280. Tống Thái học sinh Nquỵễn Hán Anh qui Hồng Châu Tiễn Thái học sinh Nguyễn Hán Anh về Hồng Châu. 460 281. Bệnh trung hoài HồngChâu Kiểm chính Nguyễn Hán Anh Thu dạ» dĩ vận Trong khi ốm, nhớ vần thơ Đêm thu» của Kiểm chính Hồng Châu Nguyễn Hán Anh 461 282. Mộ thu Cuối mùa thu 463 283. Thù Đạo Khê Thái học Xuân hàn» vận Đáp lạii bài thơ Rét mùa xuân» của Thái học Bạo Khê 465 284. Đề Huyền Thiên tự Đề chùa Huyền Thiên 466 285. Thu dạ lưu biệt Hồng Châu Kiểm Chính Đêm thu lưu biệt Kiểm chính Hồng châu 467 286. Bồi Băng Hồ Tường công du Xuân Giang Theo Tướng công Băng Hồ đi chơi sông Xuân Giang 469 287. Thôn cư Chỗ ở trong xóm 470 288. Tặng Đông Triều Phạm tiên sinh Tăng tiên sinh họ Phạm ở Đông Triều 471 289. Hoàng Giang dạ vũ Mưa đêm ở Hoàng Giang 472 290. Hóa thánh thần chung Tiếng chuông sớm ở Hóa thành 473 291. Thiên thánh hựu quốc tự tảo khởi Ở chùa Thiên thánh hựu quốc, dậy sớm 474 292. Chu trung ngẫu thành Trong thuyền ngẫu nhiên thành thơ 475 293. Thu dạ Đêm thu 475 294. Trung thu ngoạn nguyệt hữu hoài Trung thu ngắm trăng cảm hoài 476 295-296. Thiên Trường chu trung Trong thuyền ở Thiên Trường 477 297. Đông Ngàn xuân mộng Mộng xuân ở Đông Ngàn 479 298. Thao Giang quận xá Ở quận xá miền sông Thao 480 299. Đề Tiên Du tự Đề chùa Tiên Du 481 300. Sơn trung Trong núi 482 301. Giang thôn xuân cảnh Cảnh xuân ở xóm bên sông 483 302. Diệp mã nhi phủ Phú con ngựa lá 486 303. Thanh Hư động ký Bài ký Động Thanh Hư 495 NGUYỄN BÁ THÔNG 304. Thiên Hưng trấn phú Phú Trấn Thiên Hưng 500 TRẦN THUẤN DU 305. Bảo Sơn tự Chùa Bảo Sơn 504 306. Thành tây đại ẩn lư khẩu chiếm Vịnh căn nhà đại ẩn ở phía tây thành 506 NGUYỄN MỘNG TRANG 307. Đề Tây Đô thành Đê thành Tây Đô 507 NGUYỄN BIỂU 308. Họa thơ Trùng Quang Đế 510 309. Ăn cỗ đầu người 510 TRẦN QUÍ KHOÁNG 310. Tiễn Nguyễn Biểu đi sứ 513 311. Tế Nguyễn Biểu 513 SƯ CHÙA YÊN QUỐC 312. Cầu siêu cho Nguyễn Biểu 515 ĐẶNG DUNG 313. Cám hoài Cảm hoài 517 LÊ CẢNH TUÂN 314. Xuân nhật hỷ tình Ngày xuân mừng trời tạnh nắng 521 315. Vô ý Vô ý 522 316. Chu trung vịnh hoài Vịnh nỗi lòng khi ở trong thuyền 523 317. Tiên tổ kỵ nhật hữu cảm Cảm xúc nhân ngàv giỗ tổ tiên 524 318. Nam Hải huyện Tư Giang dịch dạ bạc Đêm dừng thuyền ở Trạm Tư Giang huyện Nam Hải 525 319. Quá Nam Xương phủ Đằng Vương các cố chỉ Qua nền cũ Đằng Vương các ở phủ Nam Xương 527 320. Giang trung phùng lập xuân nhật Trên sông gặp ngày lập xuân 528 321. Chí nhật thư hoài Ghi nỗi lòng trong ngày chí nhật 530 322. Cống Châu giang trung phùng tiên tỉ kỵ nhật Thuyền đi trên sông ở Cống Châu găp ngày giỗ mẹ 531 323. Nguyên nhật Ngày đầu năm 533 324. Mông Lý dịch ngẫu thành Đến trạm Mông Lý cảm xúc thành thơ 533 325. Nguyên nhật giang dịch Ngày Nguyên đán ở trạm trên sông 534 PHẠM NHỮ DỰC 326. Hạnh đàn Đàn Hạnh 536 327. Họa Phúc Châu Phùng châu phán trí sĩ sở tặng thi vận Họa vần thơ của viên Phán quan họ Phùng ở Phúc Châu tặng khi ông ta về hưu 538 328. Tống Tân An phủ Thông phán trật mẫn Tiễn viên Thông phán phủ Tân An hết nhiệm kỳ 539 329. Đề tân học quán Đề nhà mới học 540 330. Tú Giang tinh xá Nhà độc sách ở Tú Giang 541 331. Tầm Mai kiều ngoạn nguyệt Chơi trăng trên cầu Tầm Mai 543 332. Đại nhân khánh mạc Bản quản sinh nhật Làm thay người khác mừng sinh nhật của viên Bản quản họ Mạc 544 333. Hạ di cư Mừng dời nhà ở 546 334. Kỷ Quách Huyện thừa Gửi viên Huyện thừa họ Quách 547 335. Quách Châu phán quan hồi kinh, tống quan, đái, thư trật, dược tài, tẩu bút tạ chi Viên Phán quan họ Quách về kinh, đưa biếu mũ, đai, sách vở, thuốc men, viết vội bài này để cảm ơn ông ta 548 336. Hạ Lư Phán quan tăng trật phục nhậm Nam Sách châu Mừng viên Phán quan họ Lư được thăng trật lại nhậm chức ở châu Nam Sách 550 337. Đề Tĩnh An Huyện thừa Tăng Tử Phương Từ huấn đường Đề nhà Từ huấn của viên Huyện thừa huyện Tĩnh An là Tăng Tử Phương 551 338. Ngũ vân xí chiêm Ngước trông năm mây 553 339. Liên Đình nhã tập Buỗi gặp gỡ tao nhã ở Liên Đình 554 340. Dư nhiếp Tân An quận giáo, chu tam duyệt tuế, thảy trấp thảo đường,tài tất công nhi ngộ binh tiễn, cảm cựu ngẫu thành. Tôi quyền chức Giáo thụ quận Tận An, trọn ba năm mới dựng được một nếp nhà tranh, vừa làm xong thì gặp nạn binh hỏa, cảm vì việc cũ, ngẫu nhiên làm thành thơ 556 341. Thôi Đông Triều châu xuất mộc đầu Giục châu Đông Triều nộp gỗ 557 342. Tạ Hoa Chỉ huy tống thú đầu thông tích Tạ quan Chỉ huy họ Hoa cho đầu thú và ngói úp nóc 559 343. Quắc Tướng phố Vườn Quắc Tướng 560 344. Điệu thán tây vọng Trông về phương tây thương nhớ cha mẹ 561 345. Phá xỉ hý tác Làm đùa khi răng gẫy 562 346. Đoan ngọ Tết Đoan ngọ 564 347. Tỵ tặc sơn trung trừ dạ Đêm ba mươi tết tránh giặc trong núi 565 348. Xuân ý tức sự Tức cảnh về ý xuân 567 349. Phong Thủy đình quan nqư Xem cá ở đình Phong Thủy 568 350. Lý Hạ trai lai phỏng, phú thử vận dĩ đáp ông Lý Hạ Trai tới thăm, làm bài thơ này đề đáp lại 570 351. Mao trai khiển hoài tiêu khiển trong nhà tranh 572 352. Lô Hoa điếm thính châm Ở điếm Lô Hoa nghe tiếng nện vải 573 353. Lập Xuân Ngày lập xuân 574 354—355. Ký Tuyên Hóa Đào Tri phủ Gửi Tri phủ họ Đào ở Tuyên Hóa 575 356—359. Khánh Nguyễn Vận Đồng sinh nhật Mừng sinh nhật Nguyễn Vận Đồng 577 360—362. Họa Nguyễn Vận Đồng Khiển muộn» thi vận Họa vẫn bài thơ "khiển muộn" của Nguyễn Vận Đồng 581 363—366. Tạ Nguyễn Vận Đồng huệ đái Tạ Nguyễn Vận Đồng cho đai 584 PHẦN PHỤ LỤC NGUYỄN BÁ TĨNH 591 367. Liên tử Hạt sen 592 368. Mạch môn Mạch môn 593 369. Mễ thố Giấm thanh 593 370. My giác Sừng nai 594 371. Phong mật Mật ong 595 372. Nam dược quốc ngữ phú Phúc thuốc nam bằng chữ Nôm 597 373. Trực giải chỉ Nam dược tính phú Phú chỉ dẫn tính năng các vị thuốc Nam 601 TRẦN KÍNH TRẦN DUỆ TÔNG 604 374. Xích chủy hầu Hầu mõm đỏ 604 375. Nguyễn Bích Châu tế văn Văn tế Nguyễn Bích Châu 605 NGUYỄN BÍCH CHÂU 607 376. Kê minh thập sách Kê minh thập sách 608 LĨNH NAM CHÍCH QUÁI 611 377. Hà Ô Lôi truyện Truyện Hà Ô Lôi 616 378. Hồng Bàng thị truyện Truyện Họ Hồng Bàng 634 379. Nhất Dạ Trạch truyện Truyện Nhất Da Trạch 647 380. Man Nương truyện Truyện Man Nương 659 381. Bạch trĩ truyện Truyện Chim trĩ trắng 665 BÙI BÁ KỲ 669 382—383. Thượng Minh đế thi Thơ dâng lên vua nhà Minh 669 384. Cáo nạn biểu Tờ biểu cáo nạn 671 NGUYỄN CẦN 673 385. Hạ Môn hạ sảnh Tư Lang Trung Mừng quan Tư Lang Trung ở tòa Môn hạ sảnh 673 HỒ NGUYÊN TRỪNG 675 386. Nam Ông mộng lục tự Bài tựa tập "Nam Ông Mộng lục" 677 387. Nghệ Vương thảy mạt Truyện Nghệ Vương 680 388. Trúc Lâm thị tịch Trúc Lâm thị tịch 687 389. Tổ linh định mệnh Linh hồn ông định ngôi cho cháu 688 390. Đức tất hữu vị Có đức ắt có địa vị 690 391. Phụ đức trinh minh Sự kiên trinh sáng suốt của người đàn bà 671 392. Văn tang khí tuyệt Nghe tang, tắt thở 693 393. Văn Trinh ngạnh trực Văn Trinh con người cứng rắn và ngay thẳng 695 394. Y thiện dụng tâm Thầy thuốc có từ tâm 697 395. Dũng lực thần dị Dũng mãnh thần kỳ 699 396. Phu thê tử tiết Vợ chồng chết vì tiết nghĩa 701 397. Tăng đạo thần thông Phép thần thông của Tăng, Đạo 703 398. Tấu chương minh nghiệm Tờ tâu lên thiên đình có ứng nghiệm 704 399. Áp Lãng chân nhân Tiên áp lãng 706 400. Minh Không thần dị Phép thần dị của Minh Không 708 401. Nhập mộng liệu bệnh Chữa bệnh trong chiêm bao 711 402. Ni sư đức hạnh Đạo đức và phẩm hạnh của một vị sư nữ 712 403. Cảm kích đồ hành Vì cảm động mà đi bộ 714 404. Điệp tự thi cách Kiều làm thơ 717 405. Thi ý thanh tân Ý thơ tươi mới 719 406. Trung trực thiện chung Sống ngay thẳng, chết yên lành 722 407. Thi phúng trung gián Làm thơ bóng gió hết lòng khuyên can 725 408. Thi dụng tiên nhân cảnh cú Thơ dùng câu hay của người xưa 727 409. Thi ngôn tự phụ Thơ nói lên lòng tự phụ 729 410. Thi tửu kinh nhân Thơ rượu kinh người 731 411. Thi triệu dư khương Điềm thơ đề phúc về sau 733 412. Thi xứng tường chức Thơ xứng với chức Tế 735 413. Thi thán trí quân Ngậm ngùi với chữ Trí quân» 736 414. Quí khách tương hoan Khách quí vui vẻ với nhau 738 415. Nam ông mộng lục hậu tự Bài tựa sau của tập "Nam Ông mộng lục 740 CÁC BẢNG TRA CỨU 740 I. Bảng kê những tác phẩm chưa tìm được hoặc không chọn vào tập III 1344 - 1428 745 II. Niên biểu khái quát các sự kiện có liên quan tới văn học 1344 - 1428 751 III. Sách báo và tài liệu tham khảo chính 760 IV. Sách dẫn 782
0% found this document useful 0 votes563 views1 pageDescriptionThơ văn Lý - Trần 938 - 1418, Quyển I, II Và IIIOriginal TitleThơ văn Lý - Trần 938 -1418, Quyển I, II Và IIICopyright© © All Rights ReservedAvailable FormatsODT, PDF, TXT or read online from ScribdShare this documentDid you find this document useful?0% found this document useful 0 votes563 views1 pageThơ văn Lý - Trần 938 -1418, Quyển I, II Và IIIOriginal TitleThơ văn Lý - Trần 938 -1418, Quyển I, II Và IIIJump to Page You are on page 1of 1Reward Your CuriosityEverything you want to Anywhere. Any Commitment. Cancel the full document with a free trial!
thơ văn lý trần tập 1