thơ về triệu vân
Trung tâm kinh doanh và trải nghiệm Amway tại Cần Thơ toạ lac tại số 449 - 451 đường 30 Tháng 4, phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ. Trung tâm có diện tích 1.500m 2, với hội trường sức chứa lên đến 400 người. Công trình bao gồm các siêu thị mua sắm, khu
1 Lặp lại. 1.1 Câu hỏi về loại hình chợ. 1.2 Câu hỏi về bãi biển ở Quảng Bình. 1.3 Câu hỏi về thơ Haiku. 1.4 Câu hỏi về địa danh Đắk Tô ở Tây Nguyên. 1.5 Câu hỏi về loại bánh Huế. 1.6 Câu hỏi về Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ. 1.7 Câu hỏi về màu chủ
Câu thơ: "Ôi kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa!" là câu cảm thán thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi khám phá ra điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. + Từ ngọn lửa bà nhen nhóm mỗi ngày, cháu nhận ra niềm tin, tình yêu thương, ngọn nguồn của tình nghĩa.
Vay Tiền Home Credit Online Có An Toàn Không. Triệu Vân năm sinh không rõ- mất 229, tự Tử Long, người vùng Thường Sơn, là danh tướng cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở trong lịch sử Trung Quốc. Vân là 1 trong Ngũ Hổ Tướng của Lưu Bị, góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán. Triệu Vân uy dũng, võ nghệ siêu quần. Trên chiến trường, ông đánh thắng nhiều trận, lập nhiều đại công. Trong việc chính sự, Triệu Vân được xem là tướng có tư duy nhạy bén, suy nghĩ thấu đáo. Vân ngoài ra, còn là người chính trực, lâm sự bình tĩnh, tận trung vì nước, rất được lòng mọi người. Triệu Vân, không nghi ngờ gì nữa, chính là tấm gương về lòng trung thành. Chiến tích bế A Đẩu đột phá vòng vây của quân Tào Tháo trong trận Đương Dương - Trường Bản được coi là điển tích mẫu mực về tấm lòng không màng hiểm nguy, xả thân cứu chúa. Theo chính sử ghi chép thì Triệu Vân có hai người con trai, và một con gái. Trưởng nam Triệu Thống, thừa hưởng tước của cha, làm quan đến chức Hổ Bôn trung lang, Đốc Hành lãnh quân. Con thứ Triệu Quảng làm Nha Môn tướng, theo Khương Duy xuất chinh, chết khi tham gia trận Đạp Trung. Con gái là Triệu Thị, lấy Quan Bình con trai Quan Vũ sinh ra Quan Việt. Tuy nhiên, tính cho đến thời điểm hiện tại tức gần 1800 năm sau khi Triệu Vân qua đời, không có những ghi chép cụ thể và thực sự đáng tin cậy rằng ai là vợ chính thức của danh tướng này. Ngay cả Tam Quốc chí – pho sử quan trọng về thời Tam Quốc hay thậm chí cả tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa cũng không đề cập đến người phối ngẫu của Triệu Vân. Vậy “ý trung nhân” của Triêu Vân là ai? Giả thuyết đáng chú ý nhất và được dân gian lưu truyền nhiều đời nay, thì “bà xã” của Thường Sơn Triệu Tử Long là một nữ nhân có tên Mã Vân Lộc có thể đọc là Mã Vân Lục hoặc Mã Vân Liễu, ái nữ của Mã Đằng, chính là em ruột của Mã Siêu. Cái tên Mã Vân Liễu lần đầu được nhắc tới, một cách chính thức trong Tiểu thuyết Phản Tam Quốc của tác giả Chu Đại Hoàng. Về cơ bản, Liễu được coi là nhân vật hư cấu. Nhưng không phải là không có cơ sở để tin rằng nàng là vợ thực sự của Triệu Vân. Trong nhiều ngôi đền cổ ở Trung Quốc, đặc biệt là vùng Hà Nam, Triệu Vân thường được thờ chung với Mã Siêu. Đây là một chi tiết có tính gợi mở rằng, giữa Vân và Siêu không chỉ đơn giản là những danh tướng trong Ngũ hổ Tướng Thục Hán. Giữa họ còn có quan hệ đặc biệt khác. Quan hệ đặc biệt ở đây, theo suy luận của nhiều sử gia Trung Quốc, Siêu chính là anh vợ của Vân. Tam Quốc Chí chép rằng, Tào Tháo sau khi đánh bại Mã Siêu và liên quân Quan Trung ở trận Đồng Quan đã ra lệnh tru di tam tộc nhà họ Mã ở Hứa Xương vào năm 212, chỉ có Mã Siêu và em trai Mã Đại, nhờ rút về Lũng Thượng mà tránh được họa sát thân. Vậy tại sao vẫn còn em gái Mã Siêu – Mã Vân Liễu sống sót sau này trở thành vợ Triệu Vân. Đáp án là ở chỗ Mã Vân Liễu không phải nữ nhân tầm thường mà là một nữ chiến binh Tây Lương, không chỉ có ngoại hình xinh đẹp mà còn dũng cảm và võ nghệ hơn người. Cũng như anh trai Mã Siêu, Liễu cũng được chân truyền thương pháp siêu đẳng của Mã gia. Trong trận chiến với Tào Tháo ở Đồng Quan, Liễu vốn đã theo hai anh trai mình, Mã Siêu và Mã Đại, xung trận. Sau khi đại quân Tây Lương thất bại thảm hại bởi kế ly gián của Táo Tháo, Liễu cùng Mã Siêu chạy sang Hán Trung nương nhờ Trương Lỗ. Sau Siêu về dưới trướng Lưu Bị, Liễu cũng theo anh trai đầu quân cho nhà Thục. Tại đây, Liễu gặp Triệu Vân. Hai người nẩy sinh tình cảm và tiến tới thành thân sau khi Lưu Bị chính thức xưng Đế, thành lập nhà Thục Hán vào năm 221. Tạo hình tuyệt đẹp của vợ chồng Triệu Vân trên phim truyền hình Trung Quốc Mã Vân Liễu là người gây ra cái chết của Triệu Vân? Năm 229, Triệu Vân chết ở Thành Đô, hưởng thọ 76 tuổi có nguồn ghi 70, hoặc 71. Cái chết của Triệu Vân, theo sách sử Tam Quốc chí thì là do tuổi già, bệnh nặng không qua khỏi. Tuy nhiên, trong dân gian lại lưu truyền một câu chuyện vô cùng kì dị về cái chết của Thường Sơn Triệu Tử Long như sau. Một hôm Vân tắm ở nhà, Liễu cọ lưng cho chồng thấy ông tuy tuổi đã cao nhưng da dẻ, trơn tru, khắp người không có một vết sẹo. Bà rất lấy làm lạ, bèn hỏi “Tướng công, ông chinh chiến bao năm như thế, chả lẽ chưa bao giờ bị thương sao?”. Vân cười đáp “Đương nhiên, ta trải qua trăm trận, giết địch vô số, nhưng không có kẻ nào đụng được đến người ta, lấy được của ta dù chỉ một giọt máu”. Liễu nghe xong, trong đầu bỗng dấy lên ý nghĩ nghịch ngợm. Bà lén lấy cây kim thêu, nhẹ chân đến bên chồng dùng kim đâm một nhát vào cánh tay ông. Triệu Vân giật mình vì nhói đau, nhìn thấy giọt máu chảy lăn trên cánh tay thì vô cùng hoảng sợ, mặt mày đột nhiên tái dại, hàm cứng, cuối cùng chết vì sốc.
25/11/2022 Bài thơ sách giáo khoa 2,322 Views Bài thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trích trong tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên của tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật trung tâm Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na ân tình. Qua đó thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Lục Vân Tiên là một truyện thơ nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ 19, truyện có 2082 câu thơ lục bát. Đoạn trích thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện này. Bài thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – Nguyễn Đình Chiểu Vân Tiên ghé lại bên đàng, Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô. Kêu rằng “Bớ đảng hung đồ, Chớ quen làm thói hồ đồ[1] hại dân.” Phong Lai[2] mặt đỏ phừng phừng “Thằng nào dám tới lẫy lừng[3] vào đây. Trước gây việc dữ tại mầy[4], Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.” Vân Tiên tả đột hữu xông[5], Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang[6]. Lâu la bốn phía vỡ tan, Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Phong Lai trở chẳng kịp tay, Bị Tiên một gậy thác rày thân vong[7]. Dẹp rồi lũ kiến chòm om, Hỏi “Ai than khóc ở trong xe này?” Thưa rằng “Tôi thiệt người ngay, Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ. Trong xe chật hẹp khôn phô[8], Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.” Vân Tiên nghe nói động lòng, Đáp rằng “Ta đã trừ dòng lâu la. Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai. Tiểu thơ con gái nhà ai, Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì[9]? Chẳng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái[10] việc gì đến đây? Trước sau chưa hãn dạ nầy[11], Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?” Thưa rằng “Tôi Kiều Nguyệt Nga, Con này tì tất[12] tên là Kim Liên. Quê nhà ở quận Tây Xuyên, Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê. Sai quân đem bức thơ về, Rước tôi qua đó định bề nghi gia. Làm con đâu dám cãi cha, Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành. Chẳng qua là sự bất bình[13], Hay vầy[14] cũng chẳng đăng trình[15] làm chi. Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi[16]. Trước xe quân tử[17] tạm ngồi, Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa. Chút tôi[18] liễu yếu đào thơ[19], Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần[20]. Hà Khê qua đó cũng gần, Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng. Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không. Gẫm câu báo đức thù công[21], Lấy chi cho phỉ[22] tấm lòng cùng ngươi”. Vân Tiên nghe nói liền cười “Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Nay đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì. Nhớ câu kiến nghĩa bất vi[23], Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. [1] Hồ đồ lơ mơ không rõ, thiếu căn cứ rõ ràng. Ở đây chỉ thói làm càn, không chính đáng. [2] Phong Lai tên của kẻ cầm đầu bọn cướp. [3] Lẫy lừng vang dội, lừng danh, khắp nơi đều biết. Ở đây dùng nghĩa cổ, có nghĩa là dữ dội, hung hăng gây sự. [4] Mầy mày tiếng miền Nam. [5] Tả đột hữu xông hữu xung đánh vào bên trái, xông thẳng bên phải, ý nói thế chủ động tung hoành khi lâm trận. [6] Triệu Tử phá vòng Đương Dang Đương Dương Triệu Vân, tên chữ là Tử Long, một tướng trẻ của Lưu Bị thời Tam Quốc. Khi lưu Bị bị quân Tào đánh đuổi, chạy đến Đương Dương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, phải bỏ cả vợ con chạy về phía nam. Triệu Vân một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ A Đẩu, con nhỏ của Lưu Bị. [7] Thân vong ý nói chết bỏ mạng thân thân xác, vong mất. [8] Khôn phô khó nói, khó mà bày tỏ được hết. [9] Mang tai bất kì bất ngờ, thình lình gặp tai nạn. [10] Khuê môn cửa phòng của người con gái. Khuê môn phận gái phận đàn bà con gái ở chốn phòng the, không đi ra ngoài – theo luân lí phong kiến ngày xưa. [11] Chưa hãn dạ này tiếng miền Nam lòng này chưa tỏ, chưa biết chắc chắn hãn rõ [12] Tì tất đầy tớ gái. [13] Sự bất bình việc không bình thường, không may xảy ra ngoài ý muốn của mình, ý nói không ngờ bị bọn cướp bắt. [14] Hay vầy tiếng miền Nam biết như thế này. [15] Đăng trình lên đường đi xa. [16] Ý cả câu cái trinh tiết, phẩm giá mà người con gái giữ gìn cả một đời bỗng chốc bị phá hỏng. [17] Quân tử tiếng người phụ nữ tôn gọi người con trai có tài, có đức thời xưa. [18] Chút tôi cái tôi nhỏ bé, một cách nói khiêm tốn để chỉ mình khi xưng hô với người khác. [19] Liễu yếu đào thơ nói thể chất của người con gái mềm mại, yếu ớt. [20] Đã phần đã là phần của tôi, ý nói giữa đường gặp phải bọn cướp, lâm vào hoàn cảnh xấu. [21] Báo đức thù công báo trả ơn đức, đền đáp công lao. [22] Phỉ thoả đáng, xứng đáng, thoả lòng. [23] Kiến nghĩa bất vi thấy việc nghĩa không làm. Cả hai câu thơ ý nói thấy việc nghĩa mà bỏ qua không làm thì không phải là người anh hùng. Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên”, “hát Vân Tiên” ở Nam Kì và Nam trung Kì. Ảnh hưởng của nó còn lan rộng ra toàn quốc. truyện được in nhiều lần, bởi thế có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có câu thơ lục bát. Có thể tóm tắt truyện như sau Lục Vân Tiên quê ở quận Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, chàng đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay vẽ một bức hình chàng giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục hành trình, gặp và kết bạn với Hớn Minh, một sĩ tử khác. Sau khi về thăm cha me, Vân tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa là gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô gặp lại Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó chàng lại bị cha con võ Công hãm hại đem bỏ vào hang núi Thương Tòng. Được Du thần và ông Tiền cứu ra, Vân tiên may mắn gặp lại Hớn Minh vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm càn mà Hớn Minh phải bỏ thi, sống lẩn lút trong rừng. Hớn Minh đón bạn về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muốn gả con gái, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Võ Công hổ thẹn ốm chết. Nghe tin Lục Vân tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại một hai đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng, nương nhờ một bà lão dệt vải. Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho thuốc, mắt lại sáng, liền trở về thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chàng đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Đánh giặc tan, Vân tiên một mình lạc vào trong rừng, đến nhà lão bà hỏi thăm đường và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc. Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện. Check Also Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Cao Bá Quát Sa hành đoản ca Trường sa phục trường sa, Nhất bộ nhất hồi khước. Nhật …
đời Triệu Vân sinh năm 168 tại thành Chân Định 正定县 thuộc vùng Thường Sơn 常山郡 bây giờ là Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc. Ông cao khoảng 1,92 m 6,3 bộ, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản trong một lần Triệu Vân cứu Công Tôn Toản thoát chết, một tướng quân cát cứ trong vùng vào khoảng cuối năm 191 hoặc đầu năm 192, với danh nghĩa thủ lĩnh một đội quân tình nguyện nhỏ. Trong năm 192, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị, người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản, giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Ngay sau đó, Triệu Vân từ bỏ Lưu Bị và Công Tôn Toản để về quê chịu tang anh trai. Triệu Vân lại theo về với Lưu Bị vào năm 200. Từ đó Triệu Vân quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Tam Quốc Chí kể họ cùng ngủ chung một giường trong thời gian hai người ở tại Gia Thành. Trong khoảng thời gian đó, Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của Lưu Bị. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị...... Trường Bản nhân cuộc chiến Sau khi tiêu diệt các tập đoàn phong kiến của Viên Thiệu và Lữ Bố, Tào Tháo trở thành tập đoàn phong kiến có thế lực lớn nhất. Sau đó, Tào Tháo sai Hạ Hầu Đôn đem quân đánh Lưu Bị nhưng thua ở trận Tân Dã. Sau đó Lưu Biểu chết, vợ và con trai thứ của Lưu Biểu là Lưu Tôn đem dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Khổng Minh khuyên Lưu Bị đến bắt giết Lưu Tôn rồi chiếm lấy Kinh Châu nhưng Lưu Bị nói Lưu Biểu trước khi chết đã gửi con cho ông nên ông không làm. Sau đó Lưu Bị dẫn quân đi Phàn Thành, đi theo còn có hơn 10 vạn dân. Sau đó, Khổng Minh sai Quan Công, Trương Phi và Triệu Vân đặt phục binh đánh thắng quân Tào 1 trận lớn ở Tân Dã lần nữa. biến Tào Tháo thua trận, giận lắm bèn đem quân đến lấy Phàn Thành. Lưu Bị bèn bỏ Phàn Thành, định vào Tương Dương nhưng bị ngăn cản nên phải đến Giang Lăng. các tướng bảo Lưu Bị nên vứt dân ở lại để đi cho nhanh nhưng ông bảo phải lấy dân làm gốc nên không nỡ bỏ. Lưu Bị sai Quan Vũ đến Giang Hạ cầu cứu, Trương Phi đi chặn hậu còn Triệu Vân bảo vệ gia thuộc. Mỗi ngày chỉ đi được hơn 10 dặm. Tào Tháo đem quân đến Kinh Châu, giết Lưu Tôn rồi sai kị binh đuổi theo. Lưu Bị đem quân đến núi Cảnh Sơn. Quân Tào ùa đến, không sao địch nổi, Lưu Bị liều chết cầm cự, may có Trương Phi bảo vệ vừa đánh vừa chạy, khi dừng lại thì thấy nhân dân và các tướng đã đi đâu hết cả. Sau đó gặp Mi Phương và được bảo Triệu Vân đã hàng giặc. Lưu Bị không tin, còn Trương Phi thì dẫn quân ra cầu Trường Bản, sai người chặt cành cây buộc vào đuôi ngựa cho bụi mù lên để làm nghi binh. Triệu Vân lạc cả gia quyến Huyền Đức, bèn đi tìm, cứu được Cam phu nhân và Mi Chúc, giết tướng của Tào Tháo là Thuần Vu Đạo, cướp được gươm báu của Tào Tháo. Sau đó gặp Mi phi nhân, được bà đưa con của Lưu Bị là Lưu Thiện cho, rồi sau đó Mi phu nhân gieo mình xuống giếng chết. Sau đó Triệu Vân tả xung hữu đột giữa quân Tào, đi đến đâu người dạt ra đến đó, Tào Tháo thấy vậy bèn ra lệnh chỉ được bắt sống, không được bắn chết. Trong trận này, Triệu Vân mang được ấu chúa ra khỏi trận, chém gãy 2 lá cờ to, cướp 3 ngọn giáo, trước sau giết được hơn 50 danh tướng của quân Tào. Triệu Vân thoát được đến cầu Trường Bản, nhờ Trương Phi cứu. Vân đem con trai Lưu Bị đến, Lưu Bị đỡ lấy rồi ném phịch xuống đất rồi bảo vì thằng nhỏ này mà ta suýt mất 1 đại tướng. Trương Phi đứng trên cầu Trường Bản, bảo ai dám ra đấu với mình. Quân Tào không ai dám tiến lên. Trương Phi quát to lần nữa, tướng của Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt đứt ruột, vỡ gan, nhã nhào xuống ngựa. Quân tướng Tào thấy thế ai cũng bỏ chạy cả. Trương Phi thấy vậy sai chặt cầu rồi sau đó Lưu Bị cùng các tướng chạy đến Giang Hạ. trận chiến Lưu Bị chạy thoát, đến nương nhờ Tôn Quyền ở Giang Đông. Tào Tháo đem quân đến đánh Giang Đông, Lưu Bị và Tôn Quyền liên kết lại đánh thắng Tào Tháo ở trận Xích Bích. Bài thơ về Triệu Vân cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng Xưa nay cứu chúa xông trăm trận Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long gian sau Sau đó, Triệu Vân theo Gia Cát Lượng và Trương Phi vào Thục. Triệu Vân tự dẫn quân độc lập, hành quân qua Giang Châu 江州 và Kiến Vi 犍為 tới Thành Đô, giúp Lưu Bị chiếm được Thành Đô. Khi Lưu Thiện lên ngôi năm 223, Triệu Vân được phong "Chinh Nam tướng quân" 征南將軍 và phong "Vĩnh Trang Đình Hầu" 永昌亭侯. Sau đó lại được phong "Trấn Đông tướng quân" 鎮東將軍. Năm 227, Triệu Vân khi đó là tướng quân đứng đầu quân đội nước Thục, theo Gia Cát Lượng dẫn quân lên Hán Trung 漢中 trong cuộc "bắc phạt" lần thứ nhất. Mùa xuân năm sau, Triệu Vân được lệnh hành quân qua Tà Cốc 斜谷 làm nghi binh cho quân chủ lực. Phải chống chọi với binh lực mạnh hơn nhiều của đại tướng Ngụy là Tào Chân 曹真, Triệu Vân đã phòng thủ thành công và dẫn quân rút lui an toàn. Ông lại được phong làm "Định Quân tướng quân". đời Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm "Thuận Bình hầu" 順平侯 năm 261.
thơ về triệu vân