thiếu nước sạch toàn cầu
Tất nhiên nhiệm vụ chính của giấm là làm sạch, nhưng sẽ có những ngóc ngách mà bạn buộc cần phải dùng đến tăm để lấy hết cặn bẩn ra, ví dụ như ở những lỗ tia nước chẳng hạn. Tất nhiên, sẽ chẳng có gì tốt hơn một chiếc bàn chải đánh răng để giúp bạn chà sạch mọi vết bẩn. Không cần phải mua bàn chải mới, một chiếc bàn chải cũ là ổn rồi.
Nước tẩy trang mặt và môi dành cho da khô, nhạy cảm. Eau Micellaire Biosensible là sản phẩm làm sạch phù hợp với làn da nhạy cảm. Hoạt chất nước cấu trúc micellar sẽ ngay lập tức loại bỏ hoàn toàn bụi bẩn và trang điểm. Đặc biệt, công thức dịu nhẹ giúp cân bằng màng
KUR6612 mang đến hiệu xuất làm sạch tối đa, với sự kết hợp hệ thống quét hút hiệu năng cao với chế độ Max+ và hệ thống lau tiên tiến có thể điều chính độ ẩm khăn lau để phù hợp với từng nhu cầu làm sạch khác nhau. Với KUR6612 bạn hoàn toàn yên tâm về việc lau dọn sàn nhà, xử lý tốt nhiều loại
Vay Tiền Home Credit Online Có An Toàn Không. 💧Bạn có biết rằng 2 tỷ người trên trái đất không thể tiếp cận với nguồn nước sạch an toàn? Cứ 20 giây lại có một trẻ em tử vong vì các bệnh liên quan đến tình trạng thiếu nước sạch và vệ sinh môi trường. 💧2025 Dự kiến khoảng 35% dân số toàn cầu thiếu nước nghiêm trọng. 💧2030 Nhu cầu về nước của con người sẽ vượt lượt cung tới 40% theo WB. 💧2040 Ước tính số dân thế giới sẽ tăng lên 9 tỷ người, trữ lượng nước ngọt chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu theo UN. 💧2050 Khoảng 70% dân số sẽ phải đối mặt với nạn thiếu nước, chất lượng nước kém, kéo theo dịch bệnh và thiếu lương thực. 👉Như vậy, sự cạn kiệt nguồn nước, gia tăng nhu cầu nước sạch, suy giảm về chất lượng nước đang là những thách thức toàn cầu mà nhân loại phải đối mặt. Nguồn “An Ninh Nước Khái Niệm, Nội Hàm và Cách Tiếp Cận”
Biến đổi khí hậu là nguyên nhân chính khiến cho mối quan hệ giữa các yếu tố mất đi sự cân bằng vốn có. Điều này chính là một mối đe dọa đối với an ninh lương thực, chất lượng nguồn nước và nguồn năng lượng. Biến đổi khí hậu là một hiện tượng mà con người không thể phủ nhận những tác động hiển nhiên của đang xem Thiếu nước sạch toàn cầuChúng ta cần hiểu về vấn đề khan hiếm nước ngọt bắt đầu từ việc hiểu rõ về sự phân bố nước trên toàn hành tinh. Khoảng 98% lượng nước trên hành tinh của chúng ta là nước mặn, chỉ có 2% là nước ngọt. Trong 2% ít ỏi này, gần 70% lượng nước là tuyết và băng, 30% là nước ngầm, dưới 0,5% là nước mặt ở các sông, hồ và ít hơn 0,05% trong khí hiếm nước ngọt đang diễn ra ở nước nước khu vực Đông Nam Á Ảnh RFAKhi nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng, chúng ta sẽ phải chứng kiến những tác động đáng kể đối với nguồn cung cấp nước sạch, đồng thời những ảnh hưởng mang tính tàn phá đối với những nguồn tài nguyên khác. Khi nhiệt độ tăng, hơi nước bốc hơi nhiều hơn sẽ dẫn đến tình trạng hạn ra, nhiệt độ tăng làm tan băng ở mức chưa từng có. Sông băng là một nguồn nước ngọt quan trọng trên toàn thế giới. Một khi những sông băng này tan chảy, chúng không thể trở về được trạng thái cũ. Các khu vực trước đây phụ thuộc vào nguồn nước từ sông băng để lấy nước ngọt sẽ phải tìm kiếm các nguồn dự báo, môi trường sẽ ấm hơn, lượng mưa sẽ nhiều hơn. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến việc thiếu nước thường xuyên hơn. Lí do được giải thích là khi tuyết và băng trên các đỉnh núi tan, nước sẽ chảy vào các hồ chứa trong suốt mùa đông và mùa hè. Khi mưa xuống, các hồ chứa sẽ nhanh chóng được lấp đầy vào mùa đông, điều này dẫn đến việc lượng nước dư thừa không có chỗ lưu trữ. Do mưa chảy nhanh hơn tuyết tan, độ ẩm của đất cao hơn, nước ngầm ít có khả năng được nạp lại. Nhiều khu vực phụ thuộc vào tuyết tan như nguồn nước ngọt chính sẽ phải đối mặt với khả năng thiếu nước như việc nguồn cung nước vào cuối hè quan hệ giữa khí hậu và nguồn nước đã hoàn toàn mất đi sự cân bằng từ đây. Các hệ thống được sử dụng để xử lý và vận chuyển nguồn nước sẽ đòi hỏi nguồn năng lượng lớn hơn, chủ yếu là năng lượng từ than đá, khí tự nhiên, dầu và nhiên liệu hóa thạch khác. Khi sử dụng nước chúng ta đồng thời sử dụng năng lượng và góp phần gây biến đổi khí hậu. Thêm vào đó, việc sản xuất và sử dụng nước đóng chai tuy là một phần nhỏ nhưng cũng làm tăng lượng phát thải khí nhà kính, bởi cần năng lượng để sản xuất chai nhựa và vận chuyển tan do trái đất nóng lên Ảnh Global Water InstituteKhi lập kế hoạch về các nguồn cung cấp nước trong tương lai, bức tranh toàn cầu dường như kém quan trọng hơn sự ảnh hưởng do trái đất nóng lên đến nguồn nước ngọt ở các khu vực riêng lẻ và trong từng mùa. Đây là một vấn đề phức tạp hơn nhiều so với việc dự đoán các xu hướng toàn cầu. Báo cáo kỹ thuật của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu IPCC kết luận rằng bất chấp lượng mưa gia tăng trên toàn cầu, nhiều vùng trên trái đất bao gồm khu vực Địa Trung Hải và Nam Phi sẽ bị ảnh hưởng nặng nề do lượng mưa giảm và bốc hơi nước tăng. Báo cáo đặc biệt của IPCC về thích ứng với biến đổi khí hậu ước tính rằng, khoảng 1 tỷ người ở các khu vực khô hạn có thể phải đối mặt với sự khan hiếm nước ngày càng cung cấp nước cho 9 tỷ người tính đến năm 2050, sẽ cần tăng 60% sản lượng nông nghiệp và tăng 15% lượng nước cần sử dụng. Nhu cầu về nước ngọt ngày càng tăng tuy nhiên, nguồn tài nguyên quý giá này lại ngày một khan hiếm. Ước tính cho thấy 40% dân số thế giới sống trong các khu vực khan hiếm nước và khoảng ¼ GDP của thế giới sẽ được sử dụng để giải quyết thách thức này. Đến năm 2025, khoảng 1,8 tỷ người sẽ sống ở những khu vực hoặc quốc gia khan hiếm nước. An ninh nước trở thành vấn đề lớn mà mỗi quốc gia phải đối mặt mỗi ngày. Bên cạnh đó, sẽ có khoảng 1 tỷ người sống trong các lưu vực gió mùa và 500 triệu người sống ở đồng bằng châu thổ đặc biệt bị ảnh hưởng do biến đổi khí rất nhiều điều chúng ta có thể làm để giảm phát thải, ngăn ngừa biến đổi khí hậu và bảo vệ nguồn nước ngọt đang bị đe dọa. Giảm sử dụng năng lượng là giải pháp đầu tiên. Điều này có thể thực hiện dễ dàng bởi bất cứ ai bằng cách tắt bớt các thiết bị điện không cần thiết, sử dụng hệ thống cách nhiệt tốt hơn cho các tòa nhà, tiết kiệm nhiên liệu xăng dầu khi sử dụng phương tiện giao pháp phổ biến khác là phân phối lại lượng nước ngọt theo không gian và thời gian thông qua hệ thống các hồ chứa lưu trữ, đường ống vận chuyển, khử nước mặn từ các đại dương để lấy nước ngọt. Các nỗ lực khác cũng đang được thực hiện đồng thời đó là tăng tiết kiệm nước, tái sử dụng nước thải. Đầu tư vào nghiên cứu và giáo dục là các giải pháp cần thiết để cung cấp kiến thức, kỹ năng và công nghệ chống lại sự khan hiếm nước ngọt trong tương trạng khan hiếm nước nghiêm trọng ở California Ảnh NOAANguồn nước ngọt hiện có trên trái đất còn bị đe dọa bởi việc sử dụng quá mức, ô nhiễm. Những nguyên nhân này gây nên tác động khủng khiếp đến con người và hệ sinh thái. Đối với vấn đề này thì sự tham gia của xã hội dân sự đóng vai trò là một phần thiết yếu. Rất nhiều hành động được đề xuất có thể giúp các nhà quản lý nguồn nước và những cơ quan có vai trò xây dựng chính sách, quyết định tăng cường năng lực khi đối mặt với những thay đổi đang diễn ra. Những biện pháp này bao gồm cả biện pháp giảm nhẹ và biện pháp thích ứng. Khôi phục rừng ngập mặn giúp bảo vệ bờ biển khỏi xói lở, nước biển dâng cũng như giảm độ mặn của đất thượng nguồn, nước mặt và nước ngầm. Xây dựng và áp dụng các chính sách có tính đến việc quản lý hoạt động của chu trình nước nói chung. Tái chế nước và tăng lượng nước ngọt nhân tạo sẽ giúp giảm áp lực đối với nguồn nước ngọt hiện có. Áp dụng các phương pháp canh tác đảm bảo việc quản lý và phục hồi carbon trong đất. Xác định các hệ sinh thái có khả năng hấp thụ carbon cao, chẳng hạn như vùng đất ngập nước và thực hiện các bước để đảm bảo việc bảo vệ những khu vực này cũng là một trong những giải pháp được đưa thêm Cuộc Sống Hôn Nhân Của Cao Viên Viên Triệu Hựu Đình Quấn QuýtMỗi quốc gia cần có các công cụ, thể chế cũng như khung pháp lý, quy định cần thiết để phân bổ, điều tiết và bảo tồn tài nguyên nước trước biến đổi khí hậu. Hệ thống thông tin rất cần cho việc giám sát tài nguyên nước, phân tích hệ thống, đưa ra các dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn và cho việc ra quyết định. Đầu tư vào công nghệ tiên tiến sẽ giúp nâng cao khả năng bảo tồn và bảo vệ tài nguyên nước, tái chế nước mưa, nước thải, phát triển các nguồn nước, tăng cường lưu trữ nước. Việc đảm bảo sự áp dụng và thích ứng những tiến bộ này đóng vai trò là chìa khóa để tăng cường an ninh nước trên toàn Nam có 108 lưu vực sông với khoảng sông, suối tương đối lớn. Tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 830 - 840 tỷ m3. Hơn 60% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài, chỉ có khoảng 310 - 320 tỷ m3 được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Lượng nước bình quân đầu người trên m3/năm. Nước dưới đất cũng có tổng trữ lượng tiềm năng khoảng 63 tỷ m3/năm, phân bố ở 26 đơn vị chứa nước lớn, nhưng tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên. Duy trì và phát triển bền vững nguồn nước, nhiệm vụ hàng đầu được đặt ra đối với các nhà quản lý là lập quy hoạch tài nguyên nước cho từng vùng, từng lưu vực sông. Trước mối đe dọa từ biến đổi khí hậu, việc bảo vệ và phát triển tài nguyên nước của Việt Nam không chỉ là những khẩu hiệu sáo rỗng mà đã được quy định chặt chẽ và triển khai quyết liệt. Đó là chính sách, quy định trồng bù rừng, đóng góp kinh phí để trồng rừng. Sự lưu thông dòng chảy trong sông, suối, kênh, rạch là biểu hiện sức sống của các loại nguồn nước từ nước mặt, nước dưới đất, nước biển. Dòng chảy được bảo đảm, nước mới giữ được hiền hòa mang lại lợi ích đích thực cho con người trong giao thông thủy, thoát lũ, chống ngập úng, vận chuyển phù sa… phân phối nguồn tài nguyên này theo quy luật tự nhiên. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam đưa ra những chính sách ưu đãi, khuyến khích cộng đồng sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả làm động lực, khuyến khích việc bảo vệ nguồn nước.
Theo thống kê của Hiệp hội Tài nguyên nước Quốc tế IWRA, Việt Nam chỉ đạt mức trung bình kém của thế giới, xét về nguồn nước nội địa và khoảng 20% dân cư tại Việt Nam chưa được tiếp cận nguồn nước sạch. Việt Nam cần làm gì để đối phó với tình trạng, mà giới chuyên gia cho là báo động khan hiếm nước sạch? Nguyên nhân Việt Nam là một quốc gia bị rơi vào tình trạng thiếu nước, mặc dù có mạng lưới sông ngòi dày đặc và có nhiều ao hồ. Số liệu thống kê của Hiệp hội Tài nguyên nước Quốc tế IWRA cho thấy nguồn nước nội địa của Việt Nam đạt trung bình kém, ở mức m3/người/năm thấp hơn 400 m3/người/năm so với mức bình quân toàn cầu. Trong khi đó, Bộ Tài Nguyên-Môi Trường Việt Nam còn dự báo lượng nước bình quân đầu người ở Việt Nam chỉ còn một nửa con số vừa nêu đến năm 2025. Nằm trong danh sách những quốc gia nhận được sự trợ giúp của thế giới, thuộc chương trình Mục tiêu Phát triển Toàn cầu MDG về cấp nước và vệ sinh, kể từ năm 2000 Ngân hàng Thế giới World Bank, Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc UNICEF, Tổ chức Y tế Thế giới WHO cùng những chính phủ và các tổ chức thế giới đã giúp đỡ cho Chính phủ Việt Nam phát triển Chiến lược Cung cấp Nước sạch Nông thôn và Vệ sinh Quốc gia đến năm 2020. Theo ghi nhận của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam, vào năm 2008, bắt đầu áp dụng các quy định bắt buộc về an toàn nước, theo quy chuẩn hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới, đối với 68 nhà máy cung cấp nước trên toàn quốc. UNICEF còn hợp tác với Bộ Nông Nghiệp-Phát Triển Nông Thôn Việt Nam để hướng dẫn cho cộng đồng cách thức xử lý và trữ nước ở những nơi mà người dân chưa thể tiếp cận nguồn nước máy. Truyền thông quốc nội, trong những năm gần đây đưa tin về tình trạng khan hiếm nước sạch nghiêm trọng xảy ra không chỉ ở các khu vực thành thị, như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mà còn khắp các vùng nông thôn ở Tây nguyên, vùng biển, thậm chí vùng sông nước đồng bằng Sông Cửu Long, do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn. Đài RFA liên lạc với bà Dung, một nông dân ở Đồng Tháp và được cho biết tình hình nước sinh hoạt của gia đình bà cùng hàng xóm tại khu vực đang dần được đô thị hóa Bây giờ ở đây người ta dùng nước máy của xã, của huyện cung cấp để sử dụng cho sinh hoạt, ăn uống, nấu nướng…Bây giờ cũng không trồng trọt gì được nữa vì tưới nước máy thì cây không sống nỗi. Không có nguồn nước nào vô hết. Những ruộng sau nhà chỉ trồng cây tạp nham, sống nhờ vào nước mưa-Nông dân ở Đồng Tháp “Bây giờ ở đây người ta dùng nước máy của xã, của huyện cung cấp để sử dụng cho sinh hoạt, ăn uống, nấu nướng…Bây giờ cũng không trồng trọt gì được nữa vì tưới nước máy thì cây không sống nỗi. Không có nguồn nước nào vô hết. Những ruộng sau nhà chỉ trồng cây tạp nham, sống nhờ vào nước mưa.” Bà Dung cũng cho biết ở những vùng trong tỉnh Đồng Tháp còn chưa bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị, thì người dân dùng nước sông cho công việc tưới tiêu ruộng vườn. Tuy nhiên, bà Dung than phiền nguồn nước sông ngày càng bị ô nhiễm. Những gì bà Dung vừa chia sẻ không phải mỗi con sông Tiền hay sông Hậu ở đồng bằng Sông Cửu Long bị ô nhiễm, mà đó là tình hình chung của hệ thống sống ngòi ở Việt Nam hiện nay. Tại Hội thảo Khoa học “Giải Pháp Xanh cho Nguồn Nước”, vừa diễn ra vào ngày 16 tháng Ba, năm 2018 ở Hà Nội, Bộ Tài Nguyên-Môi Trường thừa nhận một số sông tại Việt Nam bị ô nhiễm nghiêm trọng và chất lượng nước không đáp ứng được yêu cầu của mục đích sử dụng. Giới chức Bộ Tài Nguyên-Môi Trường khẳng định tình trạng xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt chuẩn vào nguồn nước sông vẫn xảy ra thường xuyên trên diện rộng đã dẫn đến hậu quả như thế. Thách thức Báo giới trong nước cũng dẫn nguồn theo đánh giá của các nhà nghiên cứu rằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà công tác bảo vệ môi trường không hiệu quả thì sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn nước. Giới chức Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, tại buổi Hội thảo Khoa học “Giải Pháp Xanh cho Nguồn Nước” cũng cho rằng việc thực thi các chính sách quản lý liên quan nguồn nước hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Văn Khải, từ Hà Nội nói với RFA rằng nguồn nước sạch ở Việt Nam cần phải xem xét trên 3 yếu tố quan trọng, bao gồm rừng, sông hồ và xử lý nước thải. Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải giải thích “Khi nước chảy ở những nơi rừng cây, nước chảy qua đá, tất cả các thứ thì sẽ chặn lại các bùn. Trong quá trình va đập vào đá sẽ sinh ra các ion khử các chất độc và mùi hôi và đặc biết nó thấm qua đất, thì đất làm cho nước lọc rất tuyệt vời nên nước chảy ra sẽ rất trong. Do đó, nếu không có rừng cây thì nước sẽ bị trôi hết và sẽ sinh ra hạn hán rất lớn. Vì vậy, vấn đề rừng cây chỉ là một yếu tố. Nhưng nó lại là bắt đầu vì nước trên nguồn phải sạch. Tôi đi đến tất cả những đỉnh núi cao, đến các bản làng thì cứt lợn, cứt gà hôi thối, người ta vứt rác…Trên nguồn, người ta còn dùng thuốc trừ sâu để phun vào chè trà và cây cối, thậm chí cả thuốc diệt cỏ. Cuối cùng là trên nguồn bị ô nhiễm, thì làm sao dưới nguồn có nước sạch được?” Liên quan yếu tố thứ hai, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải nhắc lại lời cảnh báo của giới khoa học ở trong nước từng lên tiếng cả thập niên trước rằng các sông hồ ở Việt Nam sẽ bị ô nhiễm do sự kết hợp giữa tình hình hạn hán với tình trạng xả thải một cách vô tội vạ của các nhà máy công nghiệp lẫn từ dân chúng xả rác bừa bãi. Ông Nguyễn Văn Khải nhấn mạnh Một mối nguy hiểm nữa là các nhà máy nhiệt điện bây giờ đẩy chất thải ra bờ biển. Do các sông bị phù sa, do bị lấp nên lượng nước về kém đi thì nước mặn sẽ tràn vào. Nhưng nước mặn tràn vào không phải là nước mặn do muối, mà là nước mặn đầy các chất độc ở các resort, các nhà máy thải ra bờ biển, đặc biệt là than xỉ của các nhà máy nhiệt điện. Tức là, người Việt Nam đang tự hủy hoại mình-Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải “Một mối nguy hiểm nữa là các nhà máy nhiệt điện bây giờ đẩy chất thải ra bờ biển. Do các sông bị phù sa, do bị lấp nên lượng nước về kém đi thì nước mặn sẽ tràn vào. Nhưng nước mặn tràn vào không phải là nước mặn do muối, mà là nước mặn đầy các chất độc ở các resort, các nhà máy thải ra bờ biển, đặc biệt là than xỉ của các nhà máy nhiệt điện. Tức là, người Việt Nam đang tự hủy hoại mình.” Đồng quan điểm với Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, một vài nhà khoa học ở trong nước mà chúng tôi được dịp trao đổi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để cải thiện tình trạng thiếu nước sạch tại Việt Nam là dân trí, do ý thức vì cộng đồng của người Việt Nam không được chú trọng, kể cả trong việc quản lý cấp vĩ mô của nhà nước. Ngày 22 tháng Ba hàng năm là “Ngày Thế Giới Nước”, do Liên Hiệp Quốc quy định. Nhân ngày này trong năm 2018, Liên Hiệp Quốc sẽ công bố báo cáo về phát triển nước trên thế giới và các giải pháp dựa vào thiên nhiên cho nước. Tại Việt Nam, Bộ Y Tế và Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, hồi năm ngoái công bố số liệu thống kê có đến 9000 người tử vong vì sử dụng nguồn nước ô nhiễm và kém vệ sinh, gần 250 ngàn gười nhập viện vì bị tiêu chảy cấp bởi nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm và gần 200 ngàn người mắc bệnh ung thư mỗi năm.
thiếu nước sạch toàn cầu